Chuyển đến nội dung chính

Giữ rừng và dựng tương lai xanh [Bài 1]: Từ mất rừng nghiêm trọng thành điểm tham chiếu toàn cầu

 

Từ nguy cơ 'trắng rừng' sau chiến tranh, Việt Nam đã phục hồi độ che phủ trên 42%, trở thành điểm sáng quốc tế về lâm nghiệp và phát triển bền vững.

LTS: Trong 80 năm hình thành và phát triển, ngành lâm nghiệp Việt Nam đã đi qua chặng đường nhiều biến động: từ mất rừng nghiêm trọng sau chiến tranh đến phục hồi độ che phủ, từ khai thác tài nguyên sang xây dựng nền kinh tế gỗ hội nhập quốc tế, sáng tạo chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, mở rộng mạng lưới bảo tồn đa dạng sinh học và nay hướng tới thị trường carbon toàn cầu.

Loạt bài "Hành trình giữ rừng và dựng tương lai xanh" phản ánh những dấu mốc tiêu biểu, cho thấy sự chuyển đổi căn bản của lâm nghiệp trong suốt 80 năm qua. Rừng không còn đơn thuần là nguồn tài nguyên, mà đã trở thành trụ cột phát triển bền vững, gắn liền với sinh kế, môi trường và cam kết khí hậu của quốc gia.

Hàng chục năm về trước, ở nhiều vùng trung du và miền núi Việt Nam, tầm mắt chỉ gặp đất trọc và đá sỏi. Những năm chiến tranh kéo dài, cộng thêm khai thác quá mức, đẩy đất nước đến nguy cơ “trắng rừng”. Núi đồi xói mòn, lũ quét liên tiếp tràn xuống bản làng, nhiều con sông trở nên đục đỏ vì phù sa. Người dân miền núi mất dần sinh kế, an ninh môi trường bị đe dọa nghiêm trọng.

Bác Hồ trồng cây đa tại xã Vật Lại, huyện Ba Vì (cũ) đầu năm 1969. Ảnh: TL.

Bác Hồ trồng cây đa tại xã Vật Lại, huyện Ba Vì (cũ) đầu năm 1969. Ảnh: TL.

Từ năm 1945 đến cuối thập niên 1980, rừng suy giảm liên tục. Số liệu lưu lại cho thấy diện tích che phủ từ mức trên 43% tụt xuống chỉ còn khoảng 27%. Khi đó, Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia mất rừng nhanh nhất thế giới. Những báo cáo gửi về đều dùng những từ ngữ mạnh: “khủng hoảng rừng”, “nguy cơ sa mạc hóa”.

Đổi mới đã mở ra một lối thoát. Chính sách giao đất, giao rừng cho hộ gia đình và cộng đồng, cùng chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc, đã thay đổi cách người dân nhìn vào cánh rừng. Ở nhiều nơi, lần đầu tiên bà con được cầm trong tay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rừng. Cái nhìn với rừng đổi hẳn, từ “của chung vô chủ” thành tài sản gắn liền với miếng cơm, manh áo.

Năm 1990, diện tích rừng chỉ còn khoảng 9,1 triệu ha. 3 thập kỷ sau, con số đã vượt 14,7 triệu ha. Độ che phủ vươn lên 42%, quay về mức của thập niên 1940 dù dân số đã tăng gấp nhiều lần và đất nông nghiệp mở rộng. Những dự án quy mô lớn như Chương trình 327 và sau đó là trồng mới 5 triệu ha rừng (1998-2010) trở thành dấu mốc trong lịch sử ngành. Tới năm 2010, tỷ lệ che phủ đã vượt 40%, khép lại chuỗi dài suy giảm.

Không chỉ những nỗ lực trong nước, cộng đồng quốc tế cũng ghi nhận. Báo cáo của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) nhiều lần nhấn mạnh, Việt Nam là điển hình phục hồi rừng, khi kết hợp được bảo vệ rừng tự nhiên với phát triển rừng trồng quy mô lớn.

Tết trồng cây đầu năm được các thế hệ lãnh đạo Đảng, Nhà nước gìn giữ, xuyên suốt các năm qua. Ảnh: VGP.

Tết trồng cây đầu năm được các thế hệ lãnh đạo Đảng, Nhà nước gìn giữ, xuyên suốt các năm qua. Ảnh: VGP.

Cùng thời gian, các tổ chức như WWF đã triển khai nhiều dự án ở Trung Trường Sơn, Tây Nguyên. Mô hình vườn ươm cộng đồng, chương trình CarBi giúp trồng hơn 10,7 triệu cây bản địa, xây dựng 13 vườn ươm, đồng thời giảm đáng kể khai thác và săn bắt trái phép.

Điều làm nên khác biệt nằm ở sự tham gia của người dân. Tới nay, khoảng 2,6 triệu hộ gia đình trực tiếp quản lý và chăm sóc rừng, nắm giữ hơn 27% diện tích toàn quốc. Ở Tây Bắc, nhiều bản làng từ bỏ tập quán đốt nương, chuyển sang giữ rừng để nhận khoán bảo vệ. Ở Tây Nguyên, mô hình cộng đồng bảo vệ rừng khộp, rừng thông giúp diện tích tự nhiên dần hồi sinh.

Một thước đo khác cũng quan trọng không kém, đó là chất lượng rừng. Sau nhiều năm chỉ nhắm tới tỷ lệ che phủ, ngành lâm nghiệp đã chuyển hướng sang rừng gỗ lớn, rừng đa loài, rừng đa mục đích. Tới năm 2024, hơn 500.000 ha đã đạt chứng chỉ quản lý bền vững - tấm “hộ chiếu xanh” để gỗ Việt Nam đi vào những thị trường khó tính.

Ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng, thành quả hôm nay là kết quả của một chuỗi chính sách cộng hưởng, từ giao đất giao rừng, đầu tư ngân sách, đến huy động doanh nghiệp và cộng đồng.

Cục trưởng Trần Quang Bảo: 'Rừng không còn chỉ được nhìn như nguồn lợi khai thác'. Ảnh: Bảo Thắng.

Cục trưởng Trần Quang Bảo: "Rừng không còn chỉ được nhìn như nguồn lợi khai thác". Ảnh: Bảo Thắng.

Ông nhấn mạnh: “Điều đáng quý là rừng không còn chỉ được nhìn như nguồn lợi khai thác. Nó trở thành nền tảng cho phát triển bền vững, gắn liền với cả môi trường lẫn sinh kế”.

Từ nền tảng đó, ngành lâm nghiệp bắt đầu bước vào những mục tiêu mới: gia tăng giá trị rừng, tham gia thị trường carbon toàn cầu, đóng góp vào cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. “Nếu chỉ coi rừng là cây xanh, chúng ta mới thấy một phần giá trị. Khi coi rừng là tài sản, giá trị ấy được nhân lên cả về kinh tế lẫn môi trường”, ông Bảo nói.

Những con số từ địa phương minh chứng rõ ràng. Tỉnh Yên Bái (cũ) sau 20 năm tăng thêm hơn 100.000 ha rừng, nhiều vùng đồi trọc phủ xanh bạt ngàn. Tỉnh Quảng Nam (cũ) phát triển rừng gỗ lớn, giúp thu nhập hộ dân tăng gấp hai, ba lần so với trồng rừng chu kỳ ngắn. Ở Tây Nguyên, chính sách khoán bảo vệ rừng đưa nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số có thêm nguồn thu ổn định.

Trồng rừng tại Vườn quốc gia Tà Đùng. Ảnh: Phạm Hoài.

Trồng rừng tại Vườn quốc gia Tà Đùng. Ảnh: Phạm Hoài.

Câu chuyện “Việt Nam từ mất rừng thành quốc gia tăng rừng” vì thế nhiều lần được nhắc tới tại các diễn đàn về khí hậu và đa dạng sinh học. Trong bản đồ toàn cầu, Việt Nam là một trong số ít quốc gia đi ngược chiều suy thoái rừng, trở thành điểm tham chiếu cho nhiều nước đang phát triển.

8 thập kỷ nhìn lại, hành trình giữ rừng của Việt Nam có đầy mất mát và hồi sinh. Từ những sườn đồi loang lổ vết cháy đến những tán xanh kéo dài tới tận chân trời, rừng đã trở thành “tài sản xanh” của quốc gia.

Rừng bảo vệ môi trường, giữ nguồn nước, nuôi sống hàng triệu con người. Và quan trọng hơn, nó mở ra một cánh cửa để Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới, gắn rừng với kinh tế xanh, với thị trường carbon, với trách nhiệm toàn cầu.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt...

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn...

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc g...

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nh...

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vù...

Khởi tố Tổng giám đốc Công ty CP Cao su Đắk Lắk

  Công an tỉnh  Đắk Lắk  khởi tố ông Bùi Quang Ninh, Tổng giám đốc Công ty CP Cao su Đắk Lắk, về tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí. Ngày 23.4, tin từ Công ty CP Cao su  Đắk Lắk  (Dakruco), ông Nguyễn Viết Tượng, Chủ tịch HĐQT, người đại diện theo  pháp luật  của công ty này, công bố thông tin về việc khởi tố bị can đối với người nội bộ của công ty. Theo văn bản công bố, ngày 22.4, Dakruco nhận được thông báo của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Đắk Lắk về việc khởi tố bị can đối với ông Bùi Quang Ninh, thành viên HĐQT, Tổng giám đốc Dakruco. Ông Bùi Quang Ninh bị khởi tố về tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước  gây thất thoát, lãng phí  xảy ra năm 2002 - 2012 tại Công ty cao su Đắk Lắk, nay là Công ty CP Cao su Đắk Lắk, theo quyết định số 104/QĐ-CSĐT ngày 17.4.2024 của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Đắk Lắk. Khách sạn Dakruco, một trong những đơn vị thuộc Công ty CP Cao su Đắk Lắk C.T....