Chuyển đến nội dung chính

Rừng “mó nước”

 Chiều muộn. Mặt trời vẫn hừng hực tỏa từng quầng nắng chói chang xuống núi đồi, thôn xóm. Bầu trời trong xanh, không một gợn mây, báo hiệu những ngày khô hạn còn kéo dài!

A Blê bước lên bậc hè, trong chiếc gùi thưa nặng trĩu sau lưng là những quả bầu khô chứa đầy nước trong văn vắt.

Y Thi từ nhà bếp chạy ra, đỡ chiếc gùi xuống, rồi hào hứng xếp từng quả bầu khô quanh cột nhà. Áp tay lên lớp vỏ đen bóng của bầu nước, cô cảm nhận hơi mát đến kỳ lạ, làm tan biến đi sự oi bức, ngột ngạt, dù cái nóng vẫn hầm hập.

Y Thi nhẹ nhàng mở nút, thận trọng nghiêng quả bầu khô cho nước chảy ra lòng bàn tay. Dòng nước mỏng manh trong lành, mát rượi thấm vào da thịt, mơn trớn, vuốt ve, làm dịu từng đường gân, từng mạch máu đang nóng ran, khô khốc.

Mát quá. Y Thi rùng mình, đôi tay vốc nước xoa lên mặt. Lạ thật, đôi tay này luôn vững vàng, chắc khỏe khi cầm cuốc, cầm rựa hay lái máy cày, lại run run khi đón dòng nước mát.

A Blê vui vẻ nhìn Y Thi, rồi nói: Tối nay chuẩn bị cơm với cá nướng cho anh, sang sớm mai đi tuần tra rừng “mó nước” với làng.   

Y Thi gật đầu, rồi nhìn về khu rừng “mó nước” hiện lên phía xa, đen thẫm dưới ánh nắng chiều.

Rừng đầu nguồn được bảo vệ nghiêm ngặt. Ảnh: H.L

 

Với dân làng, khu rừng vừa là nhà, là vườn, vừa thiêng liêng vừa gần gũi, nơi trú ngụ của thần linh, nơi ôm ấp, chở che và cung cấp nguồn nước nuôi sống con người.

Nhưng đã từng có những năm tháng rừng đầu nguồn bị xâm hại, bị tàn phá nặng nề. Người ta khoét dần từng mảng, từng mảng để trồng mì; những cây gỗ to dần biến mất, rồi đến cây nhỏ hơn cũng không còn. Con chim, con thú cũng tứ tán.

Không còn rừng che chở, làng nằm trơ trọi dưới chân núi. Không còn rừng giữ nước, con suối chảy qua làng cạn kiệt, không còn bắt được giọt nước nữa.

Khô khát làm cuộc sống của dân làng chật vật, phải chắt chiu từng giọt nước mát.

Sau này, dân làng được vận động đào giếng lấy nước. Nhưng các giếng cũng cạn kiệt vào mùa khô.

Hàng năm, làng vẫn tổ chức lễ cúng giọt nước, nhưng vì không còn nguồn nước, thay vì cúng ở rừng thì dân làng chỉ tổ chức tượng trưng tại nhà rông. Rừng hết cây lớn, người già lo hồn vía của người chết không còn nơi trú ngụ.

Mỗi khi mùa khô đến, dân làng lại phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt nước sinh hoạt kéo dài. Giếng nước của nhà A BLê cạn rất nhanh, gạn cả ngày cả đêm cũng chỉ được mấy can nhựa, để dành cho ăn uống, còn tắm giặt thì đi mấy cây số để ra sông, mà sông mùa này cũng cạn trơ đáy rồi.

Cuộc sống đảo lộn hết cả vì thiếu nước. Giếng cạn, nên dù đã tiết kiệm hết mức có thể thì vẫn thiếu nước. “Thấy khổ hơn cả thiếu ăn”- Y Thi ngậm ngùi.

Lớp người già đau đáu nhớ lại cái thời rừng già bao bọc làng; sông suối cuồn cuộn chảy, nước giọt luôn tuôn trào. Dân làng không muốn dùng nước suối, nước sông thì cũng có nước giọt, dùng thoải mái.

Trong suy nghĩ giản đơn của họ, không bao giờ tồn tại chuyện sông suối sẽ khô, nước giọt sẽ cạn kiệt.

Vậy mà sự thay đổi lại diễn ra âm thầm nhưng khốc liệt và chóng vánh. Khi A Blê cưới Y Thi, nước tự chảy kéo về tận nhà, làm heo, làm gà, chảy tràn ngày đêm, nhưng đến em gái A Blê lấy chồng thì nước chảy nhỏ giọt, không đủ dùng, đến giếng đào trước vườn cũng khô cạn, phải ra tận sông để lấy.

Ấy chính là những thay đổi ghê gớm nhất mà Y Thay tận mắt nhìn thấy, tự mình trải nghiệm.

Cho đến một ngày, cũng khá lâu rồi, khoảng giữa năm 2013, cán bộ huyện, xã vào làng, dẫn theo những người lạ nhưng thân thiện. Nghe cán bộ xã phổ biến họ đến để khảo sát, triển khai dự án hỗ trợ giao đất giao rừng gắn bảo vệ nguồn nước cho cộng đồng DTTS.

Dân làng nghe, không hiểu hết những gì họ nói, nhưng cũng biết họ muốn giao khu rừng đầu nguồn cho dân làng bảo vệ, phục hồi và trồng thêm cây rừng.

Hôm ấy, dân làng ngồi chật nhà rông, vừa hào hứng vừa tò mò, lo lắng. Hào hứng vì Đảng và Nhà nước đã hiểu cái bụng của dân làng, khi giao quyền quản lý rừng cho làng. Rồi khu rừng kia sẽ thực sự của họ; rồi rừng “mó nước” sẽ trở lại đúng dáng dấp và hồn vía của nó.

Trưởng thôn chỉ nói ngắn gọn rằng, lâu nay, dân làng không có nước tự chảy là vì mất rừng đầu nguồn. Nước từ rừng ra chứ đâu.

Còn già làng thì nói nhiều hơn. Già nói: Khi được giao cái rừng “mó nước” rồi, phải bảo vệ. Ai vi phạm làng phạt, già phạt. Ai có công bảo vệ, được khen. Giữ được rừng sẽ có nước. Bất kể ai, lớn hay nhỏ, đều phải biết điều đó để làm.

Cả làng vỗ tay rào rào, bày tỏ sự đồng thuận!

Và từ đó, rừng đầu nguồn của làng bắt đầu hành trình phục hồi, âm thầm nhưng mạnh mẽ của mình!

Làng đã xây dựng quy ước, hương ước quản lý bảo vệ rừng; quy định trách nhiệm của các thành viên trong cộng đồng tham gia bảo vệ rừng, bảo vệ nguồn nước, kết hợp với kiểm tra nguồn nước tự chảy.

Dân làng còn được hỗ trợ mấy nghìn cây giống gỗ quý, gồm trắc, hương, cẩm lai và sao đen để trồng trong rừng đầu nguồn.

Chỉ sau mấy năm được bảo vệ nghiêm ngặt, những mầm non mới bật lên ngày nào đã vươn cành xanh lá, như để tri ân  dân làng đã vất vả qua bao mùa mưa nắng. Từ làng nhìn về phía rừng đã thấy ngằn ngặt màu xanh.

Rừng đầu nguồn xanh lại, dòng nước mát cho sinh hoạt, dòng nước cho tín ngưỡng cũng đã tuôn chảy. Lễ cúng giọt nước của làng được tổ chức theo đúng những gì được truyền lại.

Dù vào những ngày khô hạn gay gắt nhất vẫn đủ nước cho dân làng sử dụng hàng ngày. Và những quả bầu khô từng phải treo trên bếp của nhà Y Thi lại chứa đầy nước mát, theo nhịp bước của A Blê về nhà mỗi chiều.

Từ ngoài cổng, tiếng của A Phong oang oang “A Blê nhớ tập trung lúc 5 giờ sáng mai nhé” kéo Y Thi ra khỏi dòng hồi tưởng. A Phong là tổ trưởng tổ bảo vệ rừng của làng. Anh sẽ đến tận nhà từng thành viên để nhắc nhở.

Ngày mai, họ sẽ đi hết một ngày, nên phải chuẩn bị cơm đem theo. Từ những chuyến đi miệt mài ấy mà rừng “mó nước” luôn yên bình.

Nghĩa là dòng nước mát sẽ luôn tuôn chảy.

HỒNG LAM

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Những loại vòng gỗ phong thủy quý hiếm nhất hiện nay

xem:  https://phongthuygo.com/nhung-loai-vong-go-phong-thuy-quy-hiem-nhat-hien-nay/ Các bạn thân mến, từ lâu gỗ là một loại vật dụng gắn liền với ông bà tổ tiên chúng ta. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, gỗ ngày càng trở lên có giá trị về vật chất và tinh thần. Nhất là trong thời đại hiện nay, các loại gỗ quý ngày càng trở lên khan hiếm và được giới thương gia săn lùng. Bạn đã tự hỏi vì sao có những loại gỗ có giá lên tới hàng trăm triệu, hàng tỷ đồng chưa? Hẳn là chúng có những công năng tuyệt vời, chất lượng gỗ tuyệt hảo. Điều đó quả là hẳn nhiên. GỖ TRẦM HƯƠNG – SỰ KỲ BÍ THOÁT TỤC Đây là dòng gỗ có giá trị nhất, quý hiếm nhất trong các loại. Hương trầm vô cùng đặc biệt và đầy thoát tục. Ngửi trầm giống như thanh lọc tâm hồn, đưa ta vào cõi phiêu linh. Trầm còn được coi là vị thuốc quý và đem lại thịnh vượng, may mắn cho người sử dụng. Trầm hương được hình thành đặc biệt từ cây dó bầu hương, dân gian có đồn rằng hương trời bay theo gió đã đáp xuống những cây bị thương h

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu