Chuyển đến nội dung chính

14 hiệp hội doanh nghiệp cùng góp ý Dự thảo quyết định ban hành định mức chi phí tái chế

 Vừa qua, 14 Hiệp hội doanh nghiệp tại Việt Nam đã góp ý đối với Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành định mức chi phí tái chế và đưa ra một số đề xuất để triển khai đóng góp tài chính cho trách nhiệm tái chế hiệu quả.

14 Hiệp hội doanh nghiệp, gồm: Hiệp hội Thực phẩm Minh Bạch, Hội Lương thực thực phẩm Tp. Hồ Chí Minh, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam, Hiệp hội Sữa Việt Nam, Hội Doanh nghiệp Hàng Việt Nam Chất lượng cao, Hiệp hội Bia - Rượu - Nước Giải khát Việt Nam, Hiệp hội Dệt may Việt Nam, Hiệp hội các Doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, Hiệp hội Chè Việt Nam, Hiệp hội các nhà sản xuất xe máy Việt Nam, Hiệp hội các nhà sản xuất Ô tô Việt Nam, Hiệp hội Nhựa Việt Nam, Hội Doanh nghiệp sản xuất và Kinh doanh Thuốc Bảo vệ Thực vật Việt Nam đã gửi văn bản tới Bộ Tài nguyên Môi trường, Các thành viên Hội đồng EPR Quốc gia, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã góp ý đối với Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành định mức chi phí tái chế hợp lý, hợp lệ đối với một đơn vị khối lượng sản phẩm, bao bì và chi phí quản lý hành chính phục vụ quản lý, giám sát, hỗ trợ thực hiện trách nhiệm thu gom, xử lý chất thải của nhà sản xuất, nhập khẩu. Các hiệp hội cũng đưa ra một số đề xuất để triển khai đóng góp tài chính cho trách nhiệm tái chế trong EPR được hiệu quả, giảm thiểu khó khăn cho doanh nghiệp trong tình hình hiện nay.

Góp ý Dự thảo quyết định ban hành định mức chi phí tái chế
Các Hiệp hội doanh nghiệp ủng hộ các nỗ lực bảo vệ môi trường, cũng như đẩy mạnh việc tái chế sản phẩm, bao bì để thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam

Góp ý về định mức chi phí tái chế (Fs)

Theo đó, các Hiệp hội cho rằng định mức Fs trong dự thảo được tính toán dựa vào các nghiên cứu tham vấn có kết quả chênh lệch nhau rất lớn, do vậy không có độ tin cậy. Theo Tài liệu thuyết minh đính kèm Dự thảo, Fs được tính là giá trị trung bình giữa hai kết quả: Đề xuất của các chuyên gia Tổ chức IFC và WWF và Đề xuất của Hiệp hội tái chế chất thải Việt Nam. Hai đề xuất này có sự khác nhau rất lớn về các chi phí cấu thành.

Hơn nữa, Fs đề xuất trong dự thảo chưa hợp lý và đang cao hơn nhiều so với mức trung bình của các nước khác, khi chỉ tính trung bình của 2 nghiên cứu có đề xuất Fs cao nhất, bỏ qua 2 nghiên cứu khác có Fs thấp hơn nhiều.

Các hiệp hội đề xuất Ban soạn thảo kiểm tra lại tính hợp lý của các số liệu trong các nghiên cứu. Đề xuất cho các Hiệp hội được tiếp xúc với toàn văn 2 nghiên cứu để có góp ý cụ thể. Đưa thêm các đề xuất Fs từ 2 nghiên cứu của Đại học Kinh tế Quốc dân và Liên minh Tái chế Việt nam vào xem xét. Chỉ sử dụng các số liệu hợp lý, được thẩm tra kỹ, để tính toán Fs.

Dự thảo quyết định ban hành định mức chi phí tái chế
Việc thu gom và tái chế chai PET là công việc của nhiều người lao động, mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp tái chế

Mặt khác, 14 Hiệp hội cũng đánh giá, công thức tính Fs như trong dự thảo hiện nay hoàn toàn bỏ qua yếu tố lợi nhuận của doanh nghiệp tái chế từ vật liệu tái chế, hay giá trị thu hồi của bao bì. Do vậy, Fs đề xuất chưa theo nguyên tắc kinh tế tuần hoàn do chưa trừ đi giá trị vật liệu thu hồi được.

Dự thảo đề xuất hệ số Fs là 0,3 cho giấy, chai PET và nhôm; Fs 0,5 cho sắt thép để giảm bớt Fs cho các vật liệu có giá trị thu hồi cao. Đề xuất hệ số Fs này không hợp lý vì đối với vật liệu như sắt thép, nhôm, bao bì giấy, chai nhựa cứng (PET), phương tiện giao thông, các nhà tái chế các vật liệu này đều có lãi, do giá trị vật liệu thu hồi được cao hơn chi phí tái chế.

Các vật liệu này đang tạo công ăn việc làm và lợi nhuận cho nhiều người lao động và doanh nghiệp tái chế, và hầu như được thu gom hết nên rất ít có nguy cơ với môi trường. Do vậy, sẽ không hợp lý nếu yêu cầu nhà sản xuất đóng góp để hỗ trợ nhà tái chế trong khi các đơn vị tái chế đó đang có lãi. Hơn nữa, đây là các bao bì, sản phẩm mà giá trị vật liệu thu hồi được cao hơn chi phí tái chế, cho nên theo nguyên tắc kinh tế tuần hoàn, hệ số Fs phải bằng 0.

Thuyết minh Dự thảo xếp loại phương tiện giao thông vào nhóm sản phẩm chưa có công nghệ tái chế phổ biến ở Việt Nam. Nội dung này chưa phù hợp do Dự thảo đang tính định mức chi phí tái chế cho phương tiện giao thông được tạm tính trên hoạt động tháo dỡ, phân loại thiết bị và tái chế sắt, thép. Theo đó, phạm vi tái chế được hỗ trợ chỉ giới hạn ở hoạt động tháo dỡ, phân loại thiết bị và tái chế sắt, thép - là các hoạt động hiện nay đã có công nghệ xử lý ở Việt Nam. Các công nghệ tái chế đối với các sản phẩm phức tạp ngoài sắt, thép chưa phổ biến ở Việt Nam hiện chưa bao gồm trong cách tính chi phí tái chế được đề xuất tại Dự thảo.

Dự thảo quyết định ban hành định mức chi phí tái chế
Phương tiện giao thông có thành phần chính là kim loại, nhựa, ... đều là những vật liệu dễ dàng tái chế

Thuyết minh Dự thảo giải thích việc áp dụng hệ số 1.0 đối với phương tiện giao thông để khuyến khích doanh nghiệp tái chế chính thức có thể cạnh tranh, thu mua được phế liệu tương ứng làm đầu vào cho hoạt động sản xuất, cũng không có tính thuyết phục do chi phí để tính Fs trong Dự thảo hiện không bao gồm chi phí thu mua.

Thuyết minh Dự thảo giải thích hệ số điều chỉnh khuyến khích nhà sản xuất chuyển hướng sang sử dụng các vật liệu có thể được phân loại, tái chế dễ dàng hơn thì sẽ có định mức chi phí tái chế thấp hơn. Tuy nhiên, điều này chưa được thể hiện trong dự thảo khi hệ số điều chỉnh ở mức cho các sản phẩm như màn hình, phương tiện giao thông có thành phần chính là kim loại, nhựa... đều là những vật liệu dễ dàng tái chế.

Đề xuất sửa đổi 

Trên cơ sở đó, các Hiệp hội đề xuất sửa đổi như sau:

Áp dụng hệ số 0 cho các vật liệu có giá trị thu hồi được cao hơn chi phí tái chế (như mô hình Na Uy và Đan Mạch), bao gồm bao bì giấy, bao bì nhựa cứng, bao bì kim loại, thiết bị điện - điện tử và phương tiện giao thông. Đối với các vật liệu khác: Fs = Chi phí tái chế x 110% - giá trị sản phẩm tái chế thu hồi được.

Đối với bao bì giấy hỗn hợp, bao bì đơn vật liệu mềm và đa vật liệu mềm: Kiến nghị sử dụng Fs là mức trung bình đề xuất của Liên minh Tái chế Bao bì Việt Nam (PRO Việt Nam).

Hiện Điều 3 của Dự thảo quy định: “Fs bao gồm cả chi phí quản lý hành chính 3%.” Điều 4 quy định: “Fs bao gồm 3% là chi phí quản lý hành chính hỗ trợ xử lý chất thải”. Qui định tại 2 điều trên không phù hợp với quy định tại Luật Bảo vệ Môi trường và Nghị định 08/2022/NĐ-CP. Do vậy, các hiệp hội đề xuất: Bỏ chi phí quản lý hành chính ra khỏi định mức Fs.

Góp ý Dự thảo quyết định ban hành định mức chi phí tái chế
Vỏ hộp giấy được tái chế thành các sản phẩm hữu ích như giấy công nghiệp, sổ ghi chép, tấm lợp và tấm phẳng sinh thái, ...

Đối với việc đánh giá nguy cơ tác động tiêu cực tới giá cả và người tiêu dùng và sức cạnh tranh của doanh nghiệp tại Việt Nam, các định mức Fs rất cao như đề xuất trong dự thảo có thể dẫn đến nguy cơ gây tăng giá lớn đối với rất nhiều sản phẩm, hàng hóa. Ví dụ giá có thể tăng thêm 1,36% với nước uống đóng chai; 0,6% với bia lon; 0,2% đối với bịch sữa, gây khó khăn cho doanh nghiệp cũng như cho người tiêu dùng, nhất là trong bối cảnh kinh tế khó khăn hiện nay.

Việc chi phí chênh lệch nhau gấp nhiều lần cho cùng 1 hạng mục giữa 2 nghiên cứu tham vấn kể trên, một nghiên cứu bị điều chỉnh số liệu tăng nhiều lần giữa 2 lần báo cáo, chỉ dùng 2 nghiên cứu có Fs cao để tính toán, không tính đến 2 nghiên cứu có Fs thấp có thể là nguyên nhân dẫn đến Fs đề xuất cao hơn nhiều so với trung bình các nước như nêu trong nghiên cứu của PRO, sẽ rất bất lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp tại Việt nam.

4 kiến nghị để triển khai thực hiện EPR hiệu quả và giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp

Các Hiệp hội cũng đưa ra 4 kiến nghị để triển khai thực hiện EPR hiệu quả và giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp:

Thứ nhất, kiến nghị trong hai năm đầu tiên (2024 và 2025), tập trung vào hướng dẫn thi hành, chưa áp dụng xử phạt, chỉ truy thu khoản nộp thiếu nếu doanh nghiệp kê khai chưa đủ hoặc chưa đúng, trừ trường hợp cố tình không kê khai hoặc cố tình gian lận. Nguyên nhân: vì EPR là một chính sách rất mới, đa số các nước Châu Á còn chưa áp dụng bắt buộc, việc thực thi cho hàng ngàn loại bao bì, sản phẩm là rất phức tạp, cần hướng dẫn chi tiết, nhiều loại bao bì, sản phẩm còn chưa có công nghệ tái chế, chưa có nhà tái chế nên nhiều doanh nghiệp không có sẵn giải pháp. Nếu áp dụng ngay việc xử phạt với mức phạt rất cao sẽ rất khó khăn và bất cập cho doanh nghiệp khi doanh nghiệp chưa được hướng dẫn đầy đủ về quy định mới.

Thứ hai, kiến nghị cho phép các doanh nghiệp thực hiện kết hợp cả hình thức tự tái chế và nộp tiền hỗ trợ tái chế trong cùng năm, thay vì bắt buộc chọn một trong 2 hình thức. Thực tế, nhiều loại bao bì, sản phẩm hiện chưa có giải pháp tái chế hiệu quả, ví dụ bao bì giấy hỗn hợp, pin lithium... Các doanh nghiệp vẫn đang tìm giải pháp tái chế phù hợp, quá trình này có thể mất nhiều thời gian để thử nghiệm, và trong khi thử nghiệm, chưa thể xác định được số lượng được tái chế. Hơn nữa, khi chưa có giải pháp tái chế phù hợp, thì Quỹ BVMT cũng không thể hỗ trợ cho giải pháp tái chế từ tiền đóng của DN được. Điều này không phù hợp với thực tiễn, sẽ gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện, và không khuyến khích được ngành công nghiệp tái chế phát triển.

Thứ ba, kiến nghị thay đổi cách nộp quỹ, theo đó sẽ quyết toán theo số lượng thực tế khi kết thúc năm, thay vì tạm ứng trước vào đầu năm, để vừa thực hiện đầy đủ trách nhiệm với môi trường vừa giảm được khó khăn cho doanh nghiệp.

Về vấn đề này, Vụ Pháp chế (Bộ Tài nguyên và Môi trường) đã ghi nhận và cho biết phải trình Chính phủ xem xét. Các doanh nghiệp rất mong muốn Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ cho phép thay đổi, hoặc trình Chính phủ cho phép, vì việc nộp tiền cho các sản phẩm, bao bì nhập khẩu và sản xuất trong năm 2024 vào năm 2025 là phù hợp với Nghị định 08/2022/NĐ-CP, Điều 81, khoản 3, mục a quy định “Việc kê khai số tiền đóng góp tài chính được tính theo khối lượng sản xuất, đưa ra thị trường và nhập khẩu sản phẩm, bao bì của năm liền trước”, do đó có thể thay đổi hướng dẫn thi hành Nghị định ở cấp Thông tư.

Thêm vào đó, đề xuất này cũng phù hợp với Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 21/4/2023 của Chính phủ chỉ đạo: “Hỗ trợ giảm chi phí cho doanh nghiệp”, “triển khai quyết liệt, hiệu quả các giải pháp hỗ trợ về thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất…”  để hỗ trợ doanh nghiệp trong giai đoạn đặc biệt khó khăn như hiện nay.

Dự thảo quyết định ban hành định mức chi phí tái chế
14 Hiệp hội kiến nghị cần có chính sách ưu đãi cho bao bì thân thiện với môi trường hoặc sử dụng vật liệu tái chế

Thứ tư, kiến nghị cần có chính sách ưu đãi cho bao bì thân thiện với môi trường hoặc sử dụng vật liệu tái chế:

Đối với phần bao bì sản phẩm đã sử dụng vật liệu tái chế, đề nghị cần có chính sách và quy định cụ thể về việc ưu đãi miễn giảm trong đóng góp hỗ trợ tái chế để tạo đầu ra cho thị trường vật liệu tái chế và thúc đẩy kinh tế tuần hoàn. Cụ thể, đề nghị đối với phần bao bì đã sử dụng vật liệu tái chế được tính hệ số điều chỉnh Fs bằng 0 và được tính là doanh nghiệp đã thực hiện trách nhiệm tái chế.

Điều này sẽ khuyến khích doanh nghiệp sử dụng vật liệu tái chế trong bao bì, gia tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên, giảm phụ thuộc vào nguồn vật liệu nguyên sinh trong sản xuất, tạo đầu ra cho ngành tái chế và giúp thúc đẩy sự phát triển của ngành tái chế ở Việt Nam, mang tính quyết định trong việc thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn.

Cần xây dựng cơ chế ưu tiên/ khuyến khích đối với các loại nguyên vật liệu thân thiện với môi trường làm bao bì, cụ thể đề nghị được tính hệ số Fs 0,5. Một trong hai yếu tố quan trọng của chính sách EPR là cơ chế khuyến khích (incentives) đối với các nhà sản xuất đã cân nhắc các yếu tố bảo vệ môi trường trong thiết kế sản phẩm (design of products). Quan điểm này được tổ chức OCED khuyến nghị, được công nhận và áp dụng rộng rãi trong thực thi chính sách EPR. Ví dụ, năm 2012, Đài Loan đã cho phép giảm 30% phí EPR đối với các sản phẩm được dán nhãn thân thiện với môi trường. Hoặc EU có chính sách giảm từ 50% đến 130% phí EPR đối với các loại bao bì có khả năng tái chế.

"Các Hiệp hội doanh nghiệp đại diện cho nhiều ngành kinh tế chủ chốt của Việt Nam, luôn cam kết ủng hộ Bộ Tài nguyên và Môi trường trong các nỗ lực bảo vệ môi trường, cũng như đẩy mạnh việc tái chế sản phẩm, bao bì để thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam", bản góp ý của 14 Hiệp hội nhấn mạnh.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về Gỗ trinh nam Trung Quốc – giá trị kinh tế cao

Cây Trinh nam (danh pháp khoa học: Phoebe zhennan; Trung văn gọi là nam mộc (楠木), nam thụ (楠樹/楠树), trinh nam (楨楠/桢楠)) là một loài thực vật thuộc họ Lauraceae. Đây là loài đặc hữu của Trung Quốc. Chúng hiện đang bị đe dọa mất môi trường sống. Nó được văn bản của phía Trung Quốc (văn bản tôi đang sử dụng là bia đá dựng vào những năm đầu thế kỉ 17) ghi là chữ Nam 楠. Chữ này có hai bộ phận: bộ mộc 木 chỉ cây, chữ nam 南 có ý chỉ là đến từ phương nam hay mọc ở phương nam. Phương nam ở đây là chỉ cả miền nam Trung Quốc ngày nay, nước Việt Nam, vùng Đông Nam Á rộng lớn. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-go-trinh-nam/ Sách Bản thảo cương mục cũng ghi nhận nó là cây của phương nam. Đây là loại cây cho gỗ chắc, thớ mịn, rất tuyệt cho các kiến trúc gỗ như đình, chùa, và dinh thự, vì kị mối mọt. Gỗ của cây trinh nam vốn rất đắt đỏ, chỉ có các hoàng đế Trung Hoa mới có khả năng sở hữu. Theo sử sách, gỗ trinh nam từng được dùng để xây dựng Tử Cấm Thành và để làm ngai vàng, đồ nội