Chuyển đến nội dung chính

Ước vọng tiền tỷ 'treo' trên những cánh rừng già

 Rừng gỗ quý Trường Sơn liệu có giữ được khi mà lực lượng bảo vệ rừng thiếu thốn cả về đời sống và nhân lực...

Ông Nguyễn Văn Cừ, Giám đốc Ban Quản lý rừng phòng hộ (BQLRPH) Quảng Ninh (Quảng Bình) cho rằng với biên chế nhân lực như hiện nay thì có “xẻ” ra cũng không đủ người bố trí trực ở các chốt, trạm nhằm bảo vệ những cánh rừng gỗ quý. “Chúng tôi không có được nguồn kinh phí và quyền được hợp đồng thêm người bổ sung cho lực lượng bảo vệ rừng”, ông Cừ ngán ngẩm.

Khó “tiêu” được nguồn tiền phân bổ

Từ cuối năm 2022, huyện Quảng Ninh được hưởng lợi từ nguồn của Chương trình Mục tiêu Quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Rừng gỗ quý Trường Sơn đang cần được bảo vệ nghiêm ngặt. Ảnh: P.V

Rừng gỗ quý Trường Sơn cần được bảo vệ nghiêm ngặt. Ảnh: PV.

Bài liên quan

Theo ông Nguyễn Văn Cừ, BQLRPH Quảng Ninh được huyện giao trách nhiệm cùng các ban ngành khác tham mưu, bố trí hợp lý nguồn tiền này. “Theo tinh thần hướng dẫn thì đối tượng được hưởng là các hộ gia đình đồng bào dân tộc ít người nhận khoán bảo vệ rừng. Như vậy, trên địa bàn huyện Quảng Ninh có 2 xã là Trường Sơn và Trường Xuân”, ông Cừ cho hay. Quy định mỗi hộ dân nhận tối đa không quá 30ha rừng, mỗi ha được nhận 400 ngàn đồng, “như vậy, mỗi hộ dân nhận bảo vệ rừng thì mỗi năm nhận được 12 triệu đồng”, ông nói.

Trao đổi với chúng tôi, ông Phạm Trung Đông, Chủ tịch UBND huyện Quảng Ninh cho hay, chương trình này được triển khai từ quý IV/2022 và năm nay. “Cuối năm ngoái, huyện được phân bổ 4,6 tỷ đồng. Năm nay, số tiền chương trình là 27 tỷ đồng. Huyện đang chỉ đạo các đơn vị liên quan tham mưu để phân bổ nguồn tiền đúng quy định. Tuy nhiên, từ anh em báo cáo lên là cũng gặp nhiều khó khăn phát sinh”, ông Phạm Trung Đông nói thêm.

Một chốt bảo vệ rừng  của BQL RPH Quảng Ninh giữa rừng thẳm. Ảnh: T.P

Một chốt bảo vệ giữa rừng thẳm của BQLRPH Quảng Ninh. Ảnh: TP.

Bài liên quan

Ông Cừ nói, hai xã miền núi Trường Sơn và Trường Xuân có khoảng 1.600 hộ dân, trong đó có khoảng 600 hộ dân nằm trong diện già cả, bệnh tật không đảm bảo sức khỏe để nhận khoán bảo vệ rừng. “Còn lại 1.000 hộ dân có thể nhận khoán bảo vệ rừng thì cũng chỉ có tổng diện tích 30 ngàn ha rừng”, ông Cừ tính toán. Một khó khăn được nhắc đến là những tiểu khu rừng xa cách bản của bà con đến cả ngày xuyên rừng, vì vậy, việc khoán rừng cho bà con bảo vệ liệu có phát huy được hiệu quả? Cũng theo ông Cừ, việc giao nhận khoán cho các hộ đồng bào dân tộc ít người nhận bảo vệ rừng phải được triển khai đúng thực tế. “Những hộ nhận khoán bảo vệ rừng cụ thể thì chúng tôi mới tham mưu chi trả chứ không thể chi trả cào bằng. Do đó, cũng không thể trong thời gian ngắn mà hoàn thành được ngay nhiệm vụ này”.

Thực tế trong nhiều năm qua, Quảng Bình đã phát động và đẩy mạnh các mô hình bảo vệ rừng cộng đồng. Qua đó, một số mô hình đã phát huy tác dụng, thúc đẩy việc bà con đồng bào dân tộc bảo vệ như rừng bản ông Tú (xã Trọng Hóa, huyện Minh Hóa), rừng Khe Dây (xã Trường Sơn, huyện Quảng Ninh), rừng thiêng xã Ngân Thủy (huyện Lệ Thủy)... với diện tích vài chục đến vài trăm ha.

Bữa cơm giữa rừng của lực lượng bảo vệ rừng Trường Sơn. Ảnh: P.V

Bữa cơm giữa rừng của lực lượng bảo vệ rừng Trường Sơn. Ảnh: PV.

Bài liên quan

Tuy nhiên, điểm chung của các mô hình rừng cộng đồng là ở sát hay có cự ly gần với bản. Do đó, việc canh giữ, tuần tra hoặc phát hiện người vào khai thác lâm sản đều thuận lợi. Những tiểu khu rừng tự nhiên cách xa bản làng đến cả ngày đi bộ hay khu vực sát biên giới Việt - Lào thì hẳn bà con khó đảm nhận được. Nhìn nhận về thực tế này, ông Cừ cho hay, hiện tại, vào rừng để tìm ra được cây gỗ quý để đánh dấu và lợi dụng lực lượng bảo vệ rừng sơ hở rồi cắt hạ cũng không đơn giản. Phần lớn là bà con quen đi rừng và vào rừng để tìm kiếm mật ong... rồi thấy được cây gỗ lớn mà thôi. Vì vậy, khi giao rừng cho bà con thì lực lượng rất khó quản lý việc người vào ra rừng. “Trách nhiệm tuyên truyền để nâng cao ý thức bảo vệ rừng cho bà con là rất cần thiết. Tuy nhiên, cũng phải có thời gian chứ không thể ngay được”, ông Cừ bọc bạch.

Nếu có được 2/27 tỷ mỗi năm thì rừng yên ổn

Chúng tôi ngồi với nhau tại Trạm bảo vệ rừng số 7, trong cái ánh sáng nhạt của nguồn sáng từ chiếc máy điện thoại cũng sắp hết pin. Câu chuyện xoay quanh số tiền 27 tỷ của Chương trình hỗ trợ cho người dân bảo vệ rừng lại được đưa ra.

“Nếu chúng tôi có được 2 tỷ mỗi năm thì việc giữ rừng sẽ được thuận lợi và chắc chắn biết bao nhiêu”, ông Cừ hy vọng.

Rồi không đợi mọi người chất vấn, ông Cừ bộc bạch luôn ý tưởng của mình. Mấy năm nhậm chức gánh trách nhiệm cũng cho ông Cừ thấy sự thiếu hụt nhân lực. Mỗi năm, biên chế cứ giảm đi mà công việc lại nặng nề hơn. “Muốn giữ rừng phải giữ tận gốc. Mà giữ tận gốc là cần có những chốt chặn giữa rừng để ngăn chặn có hiệu quả người vào ra rừng khai thác lâm sản”, ông Cừ bắt đầu chìm vào suy tính của mình.

19

Lực lượng bảo vệ rừng đang thiếu chế độ ưu đãi đặc thù khi làm nhiệm vụ ở rừng xa, núi thẳm. Ảnh: T.P

Hiển nhiên là vậy, rừng do BQLRPH Quảng Ninh quản lý có nhiều điểm cần có lực lượng chốt giữ. “Đó là các điểm Thác Cạn, sông Long Đại, khe Lồ Ô, Cầu Cạc, Lèn Ong... Nếu có lực lượng đủ mạnh chốt cứng các điểm này và một lực lượng cơ động nòng cốt hỗ trợ thì rừng được đảm bảo ổn”, ông Cừ nhìn nhận. Việc ước muốn có 2 tỷ đồng của ông Cừ là tự chủ hợp đồng với lực lượng bảo vệ rừng khoảng 20 người với mức lương khoảng 7 triệu đồng/tháng là hết gần 1,7 tỷ đồng. Số tiền còn lại để xây dựng cơ sở vật chất các trạm, chốt qua hàng năm. “Những năm trước có nguồn nên Ban được hợp đồng khoảng 15 người cho lực lượng bảo vệ rừng. Sau này, không có kinh phí nên phải chấm dứt hợp đồng”, ông Cừ nói thêm.

Ông Nguyễn Xuân Quế, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện Quảng Ninh, người có kinh nghiệm giữ rừng của lực lượng kiểm lâm Quảng Bình cũng ghi nhận những ước muốn của ông Cừ. Hơn ai hết, ông Quế là người thực tế và có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Có như vậy, ông Quế mới đề nghị lập chốt Đá Trơn giữ rừng nhằm ổn định tình hình mất an ninh ở rừng đầu nguồn suối Lồ Ô đã phát huy hiệu quả. “Bài toán giữ rừng luôn có lời giải. Tiền hỗ trợ cho lực lượng bảo vệ rừng không phải thiếu. Vấn đề là cần có cơ chế thực tế phù hợp với từng địa phương mà thôi”, ông Nguyễn Xuân Quế tự tin.

Cũng tương tự như huyện Quảng Ninh là huyện miền núi Minh Hóa. BQLRPH Minh Hóa quản lý bảo vệ gần 20 ngàn ha rừng tự nhiên. Hiện ban này có biên chế 24 viên chức sự nghiệp, trrong đó có 8 người làm công tác hành chính, còn 16 người thuộc lực lượng bảo vệ rừng chuyên trách.

Theo ông Đinh Thanh Xuân, Giám đốc BQLRPH Minh Hóa, rừng do Ban quản lý thuộc địa bàn hai xã miền núi, sát biên giới Việt - Lào gồm xã Trọng Hóa và Dân Hóa. Để giữ rừng, Ban thành lập hai trạm bảo vệ rừng ở bản Ka Ai (xã Dân Hóa), Ra Mai (xã Trọng Hóa) và một chốt ở bản Dộ (xã Trọng Hóa). “Tính ra, mỗi viên chức bảo vệ rừng phải đảm nhận hơn một ngàn ha rừng trên địa bàn xa xôi và hiểm trở. Mỗi tháng anh em phải đi tuần rừng 1 - 2 chuyến, mỗi chuyến phải mất 2 - 3 ngày nên việc ăn ngủ trong rừng thẳm với anh em gần như thường xuyên, liên tục”, ông Xuân cho hay.

Khi rừng bị mất, lực lượng bảo vệ rừng gánh trách nhiệm thật lớn. Ảnh: T.P

Khi rừng bị mất, lực lượng bảo vệ rừng gánh trách nhiệm rất lớn. Ảnh: TP.

Trước đây, huyện có kinh phí, Ban được hợp đồng bảo vệ rừng với khoảng 10 người ở địa phương nên lực lượng cũng đủ để bố trí trực ở những điểm xung yếu và thay nhau tuần rừng. Mấy năm gần đây, do không còn kinh phí nên Ban phải chấm dứt hợp đồng bảo vệ rừng. Mỗi năm, chi từ ngân sách cho Ban để trả lương, phụ cấp, chi khác khoảng 4,1 tỷ đồng. Ông Xuân ao ước: “Nếu có được hỗ trợ như các đơn vị khác 300 ngàn đồng/ha thì Ban sẽ nhận được khoảng 6 tỷ đồng mỗi năm. Nếu trừ đi tiền lương, phụ cấp thì còn lại khoảng 1,8 tỷ đồng. Số tiền này sử dụng vào hợp đồng bảo vệ rừng, tu sửa, mua sắm trang bị cho lực lượng và hỗ trợ nhiệm vụ tuần rừng cho anh em thì quá đỗi vui mừng. Rừng chắc chắn ổn định hơn, đời sống anh em bảo vệ rừng được cải thiện tốt và gắn bó thêm với nhiệm vụ”.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về Gỗ trinh nam Trung Quốc – giá trị kinh tế cao

Cây Trinh nam (danh pháp khoa học: Phoebe zhennan; Trung văn gọi là nam mộc (楠木), nam thụ (楠樹/楠树), trinh nam (楨楠/桢楠)) là một loài thực vật thuộc họ Lauraceae. Đây là loài đặc hữu của Trung Quốc. Chúng hiện đang bị đe dọa mất môi trường sống. Nó được văn bản của phía Trung Quốc (văn bản tôi đang sử dụng là bia đá dựng vào những năm đầu thế kỉ 17) ghi là chữ Nam 楠. Chữ này có hai bộ phận: bộ mộc 木 chỉ cây, chữ nam 南 có ý chỉ là đến từ phương nam hay mọc ở phương nam. Phương nam ở đây là chỉ cả miền nam Trung Quốc ngày nay, nước Việt Nam, vùng Đông Nam Á rộng lớn. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-go-trinh-nam/ Sách Bản thảo cương mục cũng ghi nhận nó là cây của phương nam. Đây là loại cây cho gỗ chắc, thớ mịn, rất tuyệt cho các kiến trúc gỗ như đình, chùa, và dinh thự, vì kị mối mọt. Gỗ của cây trinh nam vốn rất đắt đỏ, chỉ có các hoàng đế Trung Hoa mới có khả năng sở hữu. Theo sử sách, gỗ trinh nam từng được dùng để xây dựng Tử Cấm Thành và để làm ngai vàng, đồ nội