Chuyển đến nội dung chính

Những vụ tranh chấp đất đai kết thúc bằng tình người

 

TTO - Những vụ tranh chấp đất dai dẳng giữa các xã miền núi ở huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi) đã kết thúc có hậu. Những người vã mồ hôi khai hoang sẵn sàng nhường đất cho các hộ dân biệt lập ở rừng sâu mấy chục năm "xuống núi".

Những vụ tranh chấp đất đai kết thúc bằng tình người - Ảnh 1.

Bà con thôn Vàng đã giao lại sổ đỏ phần diện tích khoảng 13ha đất trước đây tranh chấp với thôn Quế cho huyện Trà Bồng trồng cây gỗ lớn - Ảnh: M.T

Tranh chấp đất đai ở miền núi rất khó giải quyết bởi nó liên quan đến sinh kế của nhiều hộ gia đình và ai cũng có cái lý của mình. Bởi vậy, việc dân vận phải khéo léo và thấu tình thì bà con mới nghe và làm theo.

Ông Đặng Ngọc Hoàng (chủ tịch UBND xã Trà Phú)

Còn nơi tranh chấp khác, bà con thống nhất giao đất lại cho địa phương trồng cây gỗ lớn.

Lòng chạm lòng, lắng nghe và sẻ chia. Người dân - chính quyền và người dân - người dân đã tìm được tiếng nói chung, ở đó chỉ có yêu thương và sẻ chia tồn tại.

Nhường đất trồng cây gỗ lớn

Xã Trà Bùi và Trà Tây (huyện Trà Bồng) nằm ngay bên cạnh đỉnh Cà Đam (đỉnh núi cao nhất tỉnh Quảng Ngãi). Dù nằm ở huyện Trà Bồng nhưng con đường nhanh nhất đến khu vực tranh chấp đất phải đi nhờ qua phần đất của huyện Sơn Hà. Nói như vậy để thấy sự cách trở của non cao, và ở chốn thâm sơn này, nhận thức của bà con cũng mập mờ như chính địa giới "lồi lõm" dẫn đến tranh chấp đất kéo dài suốt 4 năm.

Bà Hồ Thị Vy Na, bí thư Đảng ủy xã Trà Tây (huyện Trà Bồng), chia sẻ: "Người dân thôn Vàng (xã Trà Tây) và thôn Quế (xã Trà Bùi) trước đây sống rất thân tình. Nhưng từ khi vụ tranh chấp xảy ra, họ chẳng còn nhìn mặt nhau. Ròng rã nhiều năm, việc tìm được tiếng nói chung của người dân hai thôn gặp nhiều khó khăn và có lúc phát sinh điểm nóng", bà Na tâm tình.

Chuyện tréo ngoe chỉ xảy đến ở chốn rừng núi với phần diện tích đất tranh chấp được Nhà nước cấp sổ đỏ cho người dân thôn Vàng nhưng người dân thôn Quế lại canh tác. Đây là hình thức "chiếm canh" thường xảy ra ở chốn núi rừng. Ông Hồ Thanh Vương (thôn Vàng) bảo rằng vì đường xa cách trở nên hơn 3ha đất của người dân thôn Vàng bị người dân thôn Quế chiếm trồng lúa lúc nào không hay. Những người đồng bào Cor tự đi tìm tiếng nói chung, nhưng rồi không bên nào chịu nhường bên nào. "Khi chưa uống với nhau ly rượu hòa giải, dân thôn Vàng thề sẽ không đội trời chung với người thôn Quế. Còn giờ chúng tôi thân tình như anh em rồi", ông Vương cười hiền.

Để hóa thù thành bạn, ông Đặng Minh Thảo, bí thư Huyện ủy Trà Bồng, vẫn nhớ như in những cuộc họp "làm dịu những cái đầu nóng". Người Cor thương nhau tận ruột, nhưng khi ghét cũng tận da. Họ kiên quyết không chịu ngồi chung cuộc họp. Lúc này, vai trò của già làng và những người có uy tín trở nên vô cùng quan trọng. Khi người có uy tín gật đầu, cả làng sẽ thông.

Ông Hồ Văn Thính, trưởng thôn Vàng, cũng có phần đất bị người dân thôn Quế chiếm canh. Dĩ nhiên ông rất bức xúc, nhưng khi nghe ông Thảo bảo rằng có thôn nào thì cũng là người Cor, cũng đều mang họ Hồ. Còn có thể giải quyết, sao phải nặng nhẹ với nhau. Ông Thính nhận ra tình người to lớn và cần giữ gìn nét đẹp truyền thống đoàn kết của đồng bào mình. Ông Thính trút hết ruột gan với ông Thảo, và khi ông Thảo ngỏ ý để những người có uy tín nhất của hai thôn trò chuyện với nhau trước và có lời mời, ông Thính sẵn sàng đi "thương thảo" với già làng thôn Quế. "Cuộc nói chuyện thành công, hai thôn thống nhất ngồi nói chuyện và chính quyền làm trọng tài. Tôi về phổ biến và bà con đồng thuận ngay", ông Thính chia sẻ.

Sau lần ấy, những cuộc họp tiếp theo trở nên "dễ thở". Bà con thật bụng muốn giữ rừng tạo nguồn nước. Và cả thôn Vàng sẵn sàng giao lại toàn bộ khu vực với gần 13ha cho chính quyền trồng cây gỗ lớn, để tạo nguồn nước cho cả hai thôn. Thật lạ, người dân ở chốn sơn cùng thủy tận này dù chữ nghĩa bập bẹ nhưng lại nắm rõ chủ trương chung của Nhà nước. Người Cor là chủ nhân của núi rừng, từng khai hoang trồng keo phát triển kinh tế, nay lại muốn nhường đất cho chính quyền trồng cây gỗ lớn.

"Bà con chỉ yêu cầu chính quyền phải làm cho họ hệ thống nước sạch thì sẽ giao lại sổ đỏ cho Nhà nước. Tôi hứa với bà con sẽ đáp ứng ngay nguyện vọng chính đáng ấy. Bà con đã chọn tình người, biến phần đất tranh chấp thành tài sản chung" - ông Thảo, bí thư Huyện ủy Trà Bồng, nói.

Những ngày cuối tháng 4, trên vùng non cao, người dân mang sổ đỏ lên tận thửa đất của mình. Họ vui vẻ giao lại cho chính quyền. Người thôn Quế, thôn Vàng từ nay sẽ cùng sử dụng phần đất tranh chấp. Sắp đến, huyện Trà Bồng sẽ trồng trên phần đất ấy những cây lim, hương, cẩm. Rễ cây sẽ bám sâu vào lòng đất như tình người Cor hai thôn dành cho nhau. Và cánh rừng trăm năm ấy sẽ được giao lại cho chính người dân từng là chủ thửa đất chăm sóc, bảo vệ.

Những vụ tranh chấp đất đai kết thúc bằng tình người - Ảnh 3.

Ông Đặng Minh Thảo (phải) trò chuyện với người có uy tín ở nóc Ông Đến, vận động người dân xuống núi - Ảnh: M.T

Nóc Ông Đến xuống núi

Tương tự, đất thuộc địa giới xã này mà người dân xã kia canh tác xảy ra ở xã Trà Giang và Trà Phú. Sự việc kéo dài 14 năm với bao cuộc đối thoại bất thành. Những người dân vã mồ hôi khai hoang ở xã Trà Phú kiên quyết không chịu trả đất cho xã Trà Giang. Chính quyền địa phương biết lấy lý ra xử sẽ thu hồi lại đất, nhưng tình người thì không thể. Dù sao, những người ở xã Trà Phú cũng vã mồ hôi đào đá, phá chồi cây dại trong nhiều năm ròng mới có được phần đất ấy.

Một buổi tối cuối tháng 7-2021, cán bộ xã Trà Phú và huyện Trà Bồng phải vào tận thôn Phú Tài (xã Trà Phú) để họp với 35 hộ dân đang canh tác trên đất lâm nghiệp do UBND xã Trà Giang quản lý. Mong muốn của chính quyền là vận động các hộ dân ở Trà Phú trả lại đất cho xã Trà Giang. Bởi lẽ từ nhiều năm qua, xã đã tổ chức nhiều cuộc họp để tìm hướng tháo gỡ nhưng các bên vẫn chưa tìm được tiếng nói chung. Ông Võ Tiến Thế, bí thư Đảng ủy xã Trà Phú, nhớ lại: "Người dân cho rằng toàn bộ diện tích 55,8ha ở khu vực do mình cực khổ khai hoang được. Việc vượt qua địa giới xã Trà Giang 14ha do họ không biết. Nếu chính quyền muốn thu lại thì phải đền bù. Nhưng rồi khi nghe chúng tôi nói đến 14 hộ dân ở nóc Ông Đến (thôn 2, xã Trà Giang) đã sống biệt lập suốt 30 năm qua. Phần đất người dân trả lại sẽ tái định cư 14 hộ dân này thì bà con bắt đầu nhỏ giọng".

Họ cùng nhìn về phía non cao, ai cũng biết nóc Ông Đến rất xa, người khỏe mạnh phải mất hai giờ đi bộ liên tục mới đến nơi. Để xóa bỏ cách trở ấy, nhiều năm qua chính quyền phải băng rừng vận động. Sự sẻ chia dần hiện lên trên khuôn mặt những người dự họp. Họ nghĩ về 14 hộ dân ở nóc Ông Đến đều thuộc diện hộ nghèo, đời sống khó khăn. Y tế, giáo dục vẫn còn cách xa họ. Hiểu rõ lý do chính quyền vận động trả đất, người dân lập tức đồng tình. "Người dân chỉ chấp nhận giao lại đất cho 14 hộ dân xuống núi tái định cư. Nếu không thực hiện thì họ sẽ đòi lại đất. Có thể nói tình người đã chiến thắng trong vụ tranh chấp này. Đó cũng là nút thắt được tháo bỏ", ông Thế tâm tình.

Anh Võ Văn Anh (thôn Phú Tài, xã Trà Phú), là một trong những hộ tiên phong giao lại đất, bảo rằng rất tiếc phần đất mình bỏ công khai hoang nhưng nghĩ giao lại cho bà con nóc Ông Đến tái định cư là việc nên làm. Dù sao bà con xuống núi cũng cần có đất sản xuất để ổn định cuộc sống. "Cái gì đúng, thấu tình thì mình sẽ thực hiện ngay. Tôi mong bà con nhận phần đất của chúng tôi khai hoang sẽ phát triển kinh tế, con cái được học hành và cuộc sống tốt hơn ở trên núi cao cách trở", anh Anh nói.

Đêm dân vận ấy, những cán bộ trực tiếp tham gia buổi đối thoại, vận động không thể nào quên được. Cán bộ cực nhưng lại đạt hiệu quả cao nhất, bởi tất cả người dân đều dự đông đủ. Họp ban ngày, người này đi rẫy, người kia làm thuê, rất khó để tâm tình và truyền đạt đầy đủ cho tất cả bà con có quyền và nghĩa vụ liên quan. Vậy là vụ tranh chấp đã được giải quyết xong, nhưng hơn cả, chính sự đồng lòng của người dân đã giúp chính quyền giải quyết vấn đề lớn hơn là tái định cư cho người dân nóc Ông Đến. Sẽ không còn điểm nóng tranh chấp đất. Tất cả dừng lại ở tình người và yêu thương. Rồi đây, một ngôi làng mới sẽ hình thành và bình yên giữa núi rừng...

Dân vận khéo ở miền núi

Ông Đặng Minh Thảo, bí thư Huyện ủy Trà Bồng, cho biết biến những vụ tranh chấp đất kéo dài thành một câu chuyện tình nghĩa phải cảm ơn trước hết là bà con nhân dân có tấm lòng nhân ái và sẻ chia. Sau là cảm ơn già làng, người có uy tín, chính quyền các xã luôn tận tâm, tận tụy, sẵn sàng lắng nghe và sống gần dân.

"Mỗi một lần giải quyết tranh chấp đất, không chỉ lắng nghe từng nguyện vọng mà nhiều lần cán bộ phải ngồi lại uống rượu với người làng. Người đồng bào quan trọng cái tình cái nghĩa. Khi bà con thấy mình gần dân, chung chén cơm, ly rượu thì họ mới trút hết gan ruột ra tâm sự. Đó cũng là lúc mình hiểu được bà con mong muốn gì và có cách giải quyết hợp tình, hợp lý", ông Thảo nói.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu