Chuyển đến nội dung chính

Làng nghề gỗ và cơ hội kết nối thị trường xuất khẩu

 (Chinhphu.vn) - Các làng nghề gỗ đang là lực lượng chủ chốt để sản xuất các sản phẩm gỗ tiêu thụ nội địa. Trong điều kiện hiện nay, đây là lực lượng có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Tuy nhiên, hoạt động riêng lẻ của các làng nghề khiến lực lượng sản xuất này chưa phát huy hết tiềm năng.

Doanh nghiệp xuất khẩu gỗ kỳ vọng xuất khẩu ổn định từ tháng 10 khi dịch bệnh được kiểm soát sẽ bù đắp được sản lượng xuất khẩu cả năm 2021. Ảnh minh hoạ
Lao đao trong mùa dịch

Cả nước có hơn 300 làng nghề gỗ với hàng chục nghìn hộ gia đình và hàng trăm nghìn lao động tham gia sản xuất kinh doanh. Hiện, làng nghề là nguồn cung chủ yếu các sản phẩm gỗ cho thị trường nội địa. Các biện pháp giãn cách nhằm kiểm soát dịch COVID-19 trong thời gian gần đây có tác động rất lớn tới các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các làng nghề.

Nhóm nghiên cứu của Forest Trends và Hiệp hội Gỗ và lâm sản Việt Nam (VIFOREST), Hiệp hội Gỗ và lâm sản Bình Định (FPA Bình Định), Hội Mỹ nghệ và chế biến gỗ TPHCM (HAWA), Hiệp hội Gỗ và lâm sản Bình Dương (BIFA) và Hiệp hội Gỗ và lâm sản Đồng Nai (DOWA) vừa tổ chức hội thảo trực tuyến, công bố báo cáo “Đại dịch COVID-19 và làng nghề gỗ: Tác động, tính chính danh của hộ sản xuất và sự cần thiết về một chính sách bao trùm”.

Khảo sát của nhóm nghiên cứu tại 6 làng nghề gỗ vùng Đồng bằng sông Hồng (Đồng Kỵ, Hữu Bằng, La Xuyên, Liên Hà, Thụy Lân và Vạn Điểm) cho thấy, tác động của dịch COVID-19 tới các hộ sản xuất rất lớn. Cụ thể, năng lực sản xuất của các hộ đã giảm 62%. Trong số 6 làng nghề khảo sát, công suất nơi cao nhất đạt 50% (làng gỗ Thụy Lân), nơi thấp nhất chỉ đạt 30% (làng gỗ Đồng Kỵ, làng gỗ Hữu Bằng).

Khoảng 46% số hộ tại các làng đã quay trở lại sản xuất, tuy nhiên các hoạt động này chỉ mang tính chất cầm chừng với mục đích “làm để giữ thợ” và “lấy công làm lãi” mà không có lợi nhuận. Làng có số hộ quay lại sản xuất cao nhất đạt 80% (làng gỗ La Xuyên) và làng thấp nhất chỉ đạt 30% (làng gỗ Đồng Kỵ).

Đầu ra sản phẩm của các hộ giảm khoảng 76%, thu nhập giảm gần 90%, nguồn gỗ nguyên liệu đầu vào cho sản xuất giảm 68% do không tiêu thụ được sản phẩm đầu ra. Ở một số nơi như Đồng Kỵ, Liên Hà, La Xuyên lượng sản phẩm bán ra giảm 80-90%, tương ứng với mức sụt giảm về nguồn thu của hộ.

Trong báo cáo của nhóm nghiên cứu, hộ làng nghề hiện đang thiếu tính chính danh. Theo quy định hiện hành, hộ kinh doanh cá thể là các cá nhân, hoặc hộ gia đình được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh để tiến hành các hoạt động kinh doanh. Hộ kinh doanh cá thể không có con dấu và chịu trách nhiệm với các hoạt động kinh doanh của mình.

Thực tế, hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ tại các làng nghề có quy mô nhỏ lẻ, tự phát, tận dụng lao động của gia đình... Hầu hết các hộ không đăng ký thực hiện kinh doanh với cơ quan quản lý, không đăng ký thuế, không đóng thuế thu nhập và thuế giá trị gia tăng. Các giao dịch cũng hầu như không có chứng từ, hoặc hồ sơ giấy tờ để minh chứng cho tính hợp pháp của sản phẩm. Các hộ sản xuất chỉ đóng lệ phí môn bài, với mức đóng thấp nhất nhằm tiết kiệm chi phí, thậm chí, một số hộ không đóng.

Tính chính danh của hộ là sự công nhận chính thức của các cơ quan quản lý đối về các hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ. Tính chính danh này được tạo ra khi hộ tuân thủ với các yêu cầu của luật pháp khi thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh… Tuy nhiên, thực trạng hiên nay tại các làng nghề cho thấy, hầu hết các hộ không đáp ứng được các yêu cầu này.

Cần liên kết để nắm cơ hội sản xuất

Chính vì thiếu tính chính danh này nên các hộ sản xuất tại làng nghề khó tiếp cận nhiều chính sách của Chính phủ hỗ trợ cho doanh nghiệp trong dịch COVID-19.

Tại hội thảo, bà Nguyễn Thị Bảy, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề gỗ Hữu Bằng cho biết, làng nghề này đang rất khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh, thị trường trong nước hầu như không có đơn hàng sản xuất. Bà Nguyễn Thị Bảy mong muốn kết nối với các doanh nghiệp xuất khẩu để có thể gia công một phần sản phẩm theo hướng dẫn cụ thể của doanh nghiệp.

Tương tự, ông Nguyễn Văn Trường, Chi hội trưởng làng nghề gỗ Thụy Lân cho biết, làng nghề có khoảng 400-500 hộ đang kinh doanh, sản xuất, mong muốn của các hộ là được VIFOREST hỗ trợ kết nối với các doanh nghiệp xuất khẩu.

Trong hội thảo, nhiều doanh nghiệp, hiệp hội lớn trong ngành gỗ cho rằng các làng nghề là một phần rất quan trọng của ngành gỗ. Đây là lực lượng để góp phần tạo nên văn hoá gỗ Việt. Trong bối cảnh đại dịch, việc phối hợp giữa các doanh nghiệp gỗ xuất khẩu với các làng nghề là hết sức cần thiết.

Hiện nhiều doanh nghiệp xuất khẩu lớn khá khó khăn trong tập hợp lao động để hoàn thành các đơn hàng xuất khẩu vì tình hình dịch bệnh. Việc phối hợp với các làng nghề được xem là một hướng đi khả thi. 

Việc phối hợp này không chỉ có tính chất thời vụ. Đây được đánh giá là cơ hội để các làng nghề gỗ tiếp cận với các quy mô kinh doanh, sản xuất gỗ lớn và có hệ thống chuyên nghiệp. Đó cũng là một bước đệm để các làng nghề có thể xây dựng được tính “chính danh” bằng hình thức hoạt động của các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp…

Ông Đỗ Xuân Lập, Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và lâm sản Việt Nam cho biết, Hiệp hội sẽ ghi nhận và tiếp thu các ý kiến để xây dựng các chính sách chung gắn kết các lực lượng sản xuất gỗ. Người tiêu dùng trong nước cần nâng cao nhận thức về dùng sản phẩm có xuất xứ rõ ràng. Người kinh doanh xuất khẩu gỗ và lực lượng sản xuất dồi dào từ các làng nghề gỗ cũng cần gắn kết chặt chẽ, từ đó tạo sự kết nối giữa gỗ nội địa và xuất khẩu, tăng nội lực sản xuất của ngành gỗ Việt Nam.

Đỗ Hương

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu