Chuyển đến nội dung chính

Học tiếng của đồng bào để nói đồng bào hiểu, làm đồng bào tin

 

Một buổi tuyên truyền, ký cam kết về bảo vệ rừng tại Bản Giáng, xã Trung Sơn, huyện Yên Sơn (Tuyên Quang) trở nên rôm rả khi người dân trao đổi, trình bày nguyện vọng của mình bằng tiếng Nùng, tiếng Dao, tiếng Kinh. Nhưng anh Đặng Phúc Trường, cán bộ xã vẫn trả lời một cách lưu loát mọi ý kiến của người dân bằng các thứ tiếng. Cũng như anh Trường, nhiều cán bộ ở cơ sở nhờ thông thạo tiếng DTTS mà làm tốt công tác tuyên truyền và được bà con tin yêu.

Anh Đặng Phúc Trường, cán bộ địa chính xã Trung Sơn (Yên Sơn) vận động người Nùng - Bản Giáng ký cam kết bảo vệ rừng.
Anh Đặng Phúc Trường, cán bộ địa chính xã Trung Sơn, huyện Yên Sơn (đứng thứ ba từ trái qua phải) vận động người Nùng - Bản Giáng ký cam kết bảo vệ rừng.

Từ chuyện bất đồng ngôn ngữ...

Anh Đặng Phúc Trường vẫn còn nhớ như in ngày đầu mới nhận công tác tại UBND xã Trung Sơn (huyện Yên Sơn), anh được giao nhiệm vụ phụ trách thôn Bản Giáng. Bản có 43 hộ sinh sống biệt lập trên núi cao. Bà con nơi đây chủ yếu giao tiếp với nhau bằng tiếng Nùng. Một số người già không biết nói tiếng Kinh nên việc giao tiếp với bà con còn khó khăn chứ chưa nói đến việc tiếp thu tuyên truyền, vận động. Bây giờ anh Trường đã có thể giao tiếp, trả lời tất cả những ý kiến băn khoăn của bà con liên quan đến bảo vệ rừng bằng tiếng Nùng một cách lưu loát, trôi chảy.

Anh nhớ lại chuyện vui khi có lần lên bản, cụ già người Nùng tỏ ý muốn theo anh đi cùng xuống chợ, nhưng anh không hiểu tiếng nên chỉ cười cười rồi cứ thế đi về. Lúc sau thấy cụ đi bộ theo xuống đến tận dưới chân núi rồi ra hiệu xin ngồi nhờ xe máy. Anh chở cụ đi lòng vòng mà không hiểu cụ muốn đi đâu. Mãi sau nhờ người khác phiên dịch nên anh mới đưa cụ đến đúng chỗ cụ cần. 

Rồi có lần ở lại ăn cơm cùng bà con, mấy cô gái trẻ cứ “Khỉn hơi nào!” (uống cạn nhé!), mình không hiểu gì cứ gật, thế là hôm đó say rượu bí tỉ với mấy cô.

Sau mấy lần gặp phải tình huống "dở khóc, dở cười" do không biết tiếng của đồng bào, anh cán bộ trẻ quyết tâm cùng “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” để cùng nói tiếng Nùng với bà con.

Còn anh Phù Đức Lâm, Chủ tịch UBND xã Hồng Quang (Lâm Bình) cũng nhớ mãi về sự cố “lệch sóng”. Anh kể lại, ngày mới đi công tác còn vụng về lắm. Đến nhà người Tày ăn cơm, giữa bữa cơm, chị chủ nhà ngại ngần nói “Khẩu pết nó” (cơm chạm đáy nồi- nghĩa là hết cơm rồi) thế nhưng anh cán bộ trẻ không hiểu cứ ngồi đợi xới cơm…

Rồi có lần đi tuyên truyền vận động bà con người Dao phát triển kinh tế rừng, mấy cụ già cứ thắc mắc về việc giao đất rừng, anh giải thích cặn kẽ bằng tiếng phổ thông nhưng các cụ lại không hiểu. Vậy là đành phải tìm người trong làng phiên dịch hộ! Qua những “sự cố” như vậy, việc học tiếng Dao, tiếng Tày và cả tiếng Mông của anh cán bộ Phù Đức Lâm cứ thôi thúc như một lẽ tự nhiên. Nay, anh đã  có thể nghe và nói được 4,5 thứ tiếng dân tộc.

…đến bí quyết học tiếng của đồng bào

Tỉnh Tuyên Quang có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống , mỗi dân tộc đều có tiếng nói riêng. Cán bộ tại thôn bản và xã là những người thường xuyên tiếp xúc với người dân để thực hiện công tác tuyên truyền, vận động. Do đó, việc cán bộ học tiếng của đồng bào  để trở thành người biết tiếng DTTS là cách làm hiệu quả để thực hiện tốt công tác dân vận. Hành trình học tiếng của đồng bào có bao điều thú vị với những bí quyết riêng của mỗi người.

Đồng chí Cháng A Đềnh, Bí thư Chi bộ thôn Tiên Tốc, xã Bình An (Lâm Bình) hướng dẫn hộ người Dao cách nuôi trâu vỗ béo
Đồng chí Cháng A Đềnh, Bí thư Chi bộ thôn Tiên Tốc, xã Bình An (Lâm Bình) hướng dẫn hộ người Dao cách nuôi trâu vỗ béo

Chị Nguyễn Thị Mỵ, Trạm Trưởng Trạm Y tế xã Hùng Lợi (huyện Yên Sơn) là người Kinh nhưng nói thành thạo tiếng của dân tộc Mông, Dao, Tày, Nùng. Chị là cán bộ y tế thường xuyên giao tiếp khám bệnh với bà con, trong đó đa số đồng bào Mông không biết nói tiếng Kinh. Vậy là chị phải tìm mọi cách khai thác hết biểu hiện bệnh tình để chẩn đoán chính xác. Khi được hỏi bí quyết, chị dí dởm kể, ngày đầu công tác khi khám bệnh chị phải dùng động tác, hành động. Ví như muốn người bệnh co chân lên thì chị cũng co chân, bà con hiểu ý rồi phát âm cho chị nghe: “Chỉa à tư” (co đầu gối); khi bảo nằm lên giường để khám là mình cũng phải lên nằm trước, bệnh nhân lại nói “Pư khừ trư” (nằm úp sấp lên giường)… Dần dà như thế chị học theo và buộc phải nhớ vào đầu để thuận lợi cho việc khám người bệnh tiếp theo.

Còn đối với anh cán bộ người Kinh Vũ Văn Nam thì bí quyết nói thành thạo tiếng Mông đó là thực hiện 3 cùng “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” để cùng học nói tiếng của bà con. Anh Nam chia sẻ, lợi thế của anh là người địa phương, dù không sống gần đồng bào Mông nhưng trước đây với vai trò là Trưởng Công an xã Yên Lâm, anh luôn tận dụng mọi điều kiện để xuống cơ sở, gần gũi chuyện trò, làm việc, ăn cơm cùng đồng bào.

Anh Nam nói: "Mình phải biết tiếng của đồng bào thì đồng bào mới tin tưởng và chia sẻ với mình được. Chính những người dân cũng là người thầy của mình, họ dạy cho mình tiếng Mông. Điều quan trọng là mình phải chủ động học hỏi, khi mình ăn cơm, uống nước đều hỏi bà con cách nói, phát âm như thế nào. Nói đi nói lại mình sai ở đâu thì bà con sửa ở đó”. “Mưa dầm thấm lâu”, nói đi nói lại là sẽ thạo ngay thôi".

Câu chuyện về người Kinh, Tày, Dao nói tiếng Mông thì nhiều, nhưng cán bộ người Mông chủ động học tiếng Dao, Tày… để tuyên truyền thì ít lắm. Đồng chí Cháng A Đềnh, Bí thư Chi bộ thôn Tiên Tốc, xã Bình An (Lâm Bình) đã chủ động học tiếng Dao để tuyên truyền cho bà con người Dao phát triển kinh tế.

Thôn Tiên Tốc có 60 hộ người Mông và 15 hộ dân tộc Dao. Bà con người Dao chuyển cư từ thôn Tân Hòa sang nơi ở mới, cuộc sống còn nhiều khó khăn vất vả. Nhiều năm qua, Bí thư Chi bộ luôn quan tâm, tuyên truyền vận động bà con phát triển kinh tế. Ông La Văn Tịnh chia sẻ: “Trước đây, nhà mình chỉ biết trồng sắn, trồng ngô, thả rông trâu, bò nay đã biết trồng mía, chăn nuôi trâu thịt theo phương pháp an toàn sinh học và nuôi vỗ béo. Từ kinh nghiệm chăn nuôi trâu của người Mông, cán bộ A Đềnh đã nhiệt tình hướng dẫn tỉ mỉ quy trình chăm sóc trâu. Anh vừa nói bằng cả tiếng phổ thông và tiếng Dao nên các hộ dân đều nghe theo và thực hiện.

Hiện nay, tổng đàn trâu của cả thôn giờ đã lên tới 167 con, trong đó 15 hộ người Dao có 45 con. Cuộc sống người Dao ngày càng khấm khá, nhiều hộ đã vươn lên thoát nghèo từ nuôi trâu như hộ Đặng Phúc Thọ, Bàn Tiến Chu...

Trưởng thôn Bản Giáng Thèn Văn Hiển cho biết, xã Trung Sơn (huyện Yên Sơn) trước đây có nhiều "lâm tặc" lắm, nhưng được các cán bộ tuyên truyền, trong đó có cán bộ Đặng Phúc Trường nhiều năm “cắm bản”  nên tình trạng phá rừng nay không còn nữa.

Còn đó rất nhiều câu chuyện gian nan mà thú vị cũng như “quả ngọt” gặt hái được trên hành trình học tiếng đồng bào của cán bộ cơ sở. Với sự linh hoạt, khéo léo nhiều cán bộ miền núi đã tạo được niềm tin, đạt hiệu quả trong công tác tuyên truyền vận động. Điều đặc biệt là họ đã trở thành những người con yêu quý của các bản làng người đồng bào thiểu số nơi đây.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu