Chuyển đến nội dung chính

Đồng Nai: Đất sử dụng hợp pháp 34 năm bị Tòa án tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

 

Ba thửa đất của gia đình chị Huỳnh Thị Lệ Thu tại xã Sông Trầu (huyện Trảng Bom, Đồng Nai) được Nhà nước giao trồng rừng vào năm 1986, đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ kê khai, đóng thuế và được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ). Tuy nhiên, sau khi TAND tỉnh Đồng Nai có quyết định tuyên hủy các GCNQSDĐ đối với các thửa đất nêu trên do tranh chấp; gia đình chị Lệ Thu đã làm đơn đề nghị phúc thẩm bản án.

Đơn thư cầu cứu của gia đình bà Lệ Thu

Hủy GCNQSDĐ đã được sử dụng hợp pháp 34 năm

TAND cấp cao tại TP. HCM hiện đang thụ lý xét xử phúc thẩm Vụ việc tranh chấp của gia đình chị Huỳnh Thị Lệ Thu, là bị đơn (cùng với ông Ngô Văn Lộc), còn nguyên đơn là bà Nguyễn Ngọc Thu.

Theo hồ sơ vụ việc, 3 thửa đất số 1060, 1061,1062 tờ bản đồ số 39 xã Sông Trầu, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai (gọi tắt là 3 thửa đất) được gia đình bà Huỳnh Thị Lệ Thu và ông Ngô Văn Lộc (đã mất) cùng ngụ tại huyện Trảng Bom sử dụng ổn định từ năm 1986 đến nay. Gia đình bà Lệ Thu đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ kê khai, đóng thuế 03 thửa đất này, đến năm 2003, gia đình bà đã được UBND huyện Trảng Bom cấp GCNQSDĐ cho 3 thửa đất trên và được cấp lại GCNQSDĐ vào năm 2011 với nguồn gốc đất là do Nhà nước giao trồng rừng vào năm 1986.

Cụ thể, năm 2015 gia đình bà Lệ Thu bị bà Nguyễn Ngọc Thu (ngụ huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai) khởi kiện với yêu cầu buộc gia đình bà Lệ Thu trả lại cho bà Ngọc Thu 3 thửa đất nêu trên. Lý do bà Ngọc Thu đưa ra, phần đất tranh chấp trên do bà Phạm Thị Phương (mẹ chồng bà Ngọc Thu) khai phá năm 1977. Đến năm 1982 thì bà Phương cho vợ chồng bà Ngọc Thu để canh tác hoa mầu.

Liên quan đến hồ sơ vụ án tranh chấp này, trước đó TAND huyện Trảng Bom, Đồng Nai nhận định các chứng cứ mà gia đình bà Ngọc Thu đưa ra là không có cơ sở. Cụ thể, đối với các biên lai đóng thuế nông nghiệp các năm 1983, 1984, 1985 mà bà Ngọc Thu cung cấp, Tòa án nhận định là không đủ căn cứ xác định là của 3 phần đất đang tranh chấp nêu trên.

Đối với vị trí các thửa đất, TAND huyện Trảng Bom cũng nhận định rõ trong buổi đo vẽ ngày 1/4/2015 (bút lục số 229), chính bà Ngọc Thu là người trực tiếp đi chỉ ranh giới trên thực địa để đo vẽ nhưng sau khi ra kết quả thì bà Ngọc Thu lại phủ nhận kết quả này mà đề nghị TAND huyện Trảng Bom xác định theo GCNQSDĐ đã cấp cho gia đình bà Lệ Thu.

Tiếp đó, đối chiếu với các quy định trong Luật đất đai 1993, 2003 thì gia đình bà Ngọc Thu không có bất cứ tài liệu nào chứng minh đã được công nhận quyền sử dụng đất nhưng bị người khác lấn chiếm, bị thu hồi trái pháp luật.

Còn đối với hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho gia đình bà Lệ Thu năm 2003 và 2011, đối chiếu với quy định tại Luật đất đai năm 1993 và 2003 thì quá trình giao đất của gia đình bà Lệ Thu từ năm 1986 đến khi được cấp GCNQSDĐ đều đảm bảo đúng quy định.

Về việc giao đất của gia đình bà Lệ Thu, TAND huyện Trảng Bom cũng đã có nhận định rõ: Chính bà Ngọc Thu đã nhiều lần và tại phiên tòa thừa nhận rằng “danh sách 8 hộ dân được giao đất rừng từ tháng 7/1986 là danh sách có thật, công nhận hộ bà Lệ Thu có trong danh sách, danh sách này là đúng”. Tuy nhiên sau đó TAND tỉnh Đồng Nai thụ lý tiếp vụ án lại đưa ra quyết định hủy GCNQSDĐ của bà Lệ Thu; không đồng ý với quyết định của Tòa án, gia đình bà Lệ Thu đã làm đơn đề nghị giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

Sau Quyết định của TAND tỉnh Đồng Nai và huyện Trảng Bom, vụ việc tiếp tục được đưa ra xét xử phúc thẩm tại TAND cấp cao tại TP. HCM

Cần có một phán quyết đúng, tránh việc khiếu kiện kéo dài

Liên quan đến vụ án tranh chấp này, Luật sư Trần Anh Dũng, Đoàn luật sư Hà Nội cho biết: Trong vụ việc này căn cứ vào các bản án, hồ sơ vụ việc cũng như các luận cứ có trong vụ án, có thể thấy việc giao đất cho hộ ông Ngô Văn Lộc được cho hợp pháp theo đúng trình tự thủ tục Luật định, đúng quy hoạch kế hoạch sử dụng đất của tỉnh Đồng Nai thời điểm đó và hoàn toàn không lấn chiếm, cướp đất của gia đình bà Nguyễn Ngọc Thu. Hơn nữa căn cứ vào các chứng cứ, lời khai thì việc bà Ngọc Thu khai được cho tặng hoàn toàn không có tính xác thực và căn cứ pháp lý.

Cụ thể, tại Quyết định số 272-CP ngày 03/10/1977 của Hội đồng chính phủ quy định “Đất đồi núi, rừng và đất đai chưa khai phá đều thuộc quốc gia công thổ, không ai được chiếm làm của riêng…”; Phần I Thông tư số 20-TT/LB ngày 11/5/1978 của Bộ Nông nghiệp – Bộ Lâm nghiệp quy định: “Đất và rừng trên lãnh thổ cả nước đều là tài sản chung của toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý, không một đơn vị hoặc cá nhân nào được chiếm làm của riêng. Chỉ Nhà nước mới có thẩm quyền giao đất, giao rừng cho các đơn vị quốc doanh và các hợp tác xã quản lý, sử dụng theo đúng quy hoạch, kế hoạch, quy trình kỹ thuật và chấp hành đúng chính sách, luật lệ của Nhà nước”.

Bên cạnh đó, năm 1986, UBND huyện Thống Nhất đã giao đất trồng rừng cho hộ ông Ngô Văn Lộc và Cấp sổ Giao đất trồng rừng theo đúng quy hoạch kế hoạch sử dụng đất của địa phương và theo quy định của pháp luật, tuân thủ chặt chẽ về trình tự thủ tục giao đất, giao rừng. Qua các tài liệu xác minh thực tế, văn bản trả lời của các cơ quan quản lý đất đai của huyện Trảng Bom nhận thấy không có cơ sở pháp lý chứng minh gia đình bà Nguyễn Ngọc Thu đã khai phá và sử dụng đất từ năm 1976-1977 đến năm 1985.

Căn cứ vào phương án giao đất, giao rừng của tỉnh Đồng Nai và Quy định 242/QĐ-UBT ngày 07/5/1984 về việc hướng dẫn chính sách và khuyến khích trồng cây gây rừng, xét đề nghị của UBND xã Trảng Bom 1 và ông Trang Xài Nhu ngày 01/7/1986 thì ngày 09/7/1986 Chủ tịch UBND huyện Thống Nhất đã ban hành Quyết định số 27/QĐ-GĐ-GR để giao đất, giao rừng cho ông Trang Xài Nhu và 7 hộ gia đình có danh sách kèm theo, với diện tích được giao là 50ha đất trồng rừng, trong đó hộ ông Ngô Văn Lộc được giao 3ha.

Tại Quyết định số 27/QĐ-GĐ-GR, Chủ tịch UBND huyện Thống Nhất uỷ quyền cho Hạt lâm nghiệp phối hợp với UBND xã Trảng Bom 1 tiến hành giao nhận đất cho các hộ có tên trong danh sách kèm theo. Sau đó hộ ông Ngô Văn Lộc đã được chủ tịch UBND huyện Thống Nhất cấp Sổ giao đất trồng rừng số 114/LN theo chính sách pháp luật thời điểm đó (Bút lục 640, 641).

Từ những luận cứ trong suốt quá trình tố tụng, rõ ràng hộ gia đình ông Ngô văn Lộc và bà Huỳnh Thị Lệ Thu đã sử dụng hợp pháp khu đất trên, được Nhà nước công nhận, thực hiện nghĩa vụ thuế đầy đủ với cơ quan Nhà nước. Thiết nghĩ, việc cơ quan Tư pháp chấp thuận kháng án của bà Huỳnh Thị Lệ Thu cùng các thừa kế của ông Ngô Văn Lộc, công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp cho gia đình ông Lộc cũng là điều “ngay tình” và có căn cứ pháp luật.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu