Chuyển đến nội dung chính

Ðề cao vai trò, vị trí của đồng bào dân tộc thiểu số trong chiến lược phát triển đất nước

 Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Ðảng đã xác định tầm nhìn và định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021- 2030 và các nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ XIII.

Trong nhiều nội dung quan trọng thời gian tới, Nghị quyết của Ðảng đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước.

Trong vai trò và vị trí đó có đồng bào các dân tộc thiểu số với số dân chiếm khoảng 14-15% số dân cả nước; ở vùng miền núi chiếm ba phần tư diện tích cả nước ta, có khoảng 25 - 30 triệu dân sinh sống. Vùng miền núi và dân tộc đó có vị trí chiến lược quan trọng về nhiều mặt. Những năm qua, Ðảng và Nhà nước, đồng bào cả nước vẫn luôn quan tâm, đầu tư đến vùng miền núi, dân tộc thiểu số, như có Chương trình 327, 30a, 135, nhiều chương trình xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, di dân tái định cư xây dựng các công trình thủy điện... Ðời sống vật chất và tinh thần của người dân có nhiều đổi mới và tiến bộ so với thời chưa đổi mới. Thế nhưng kết quả chưa được như mong muốn. Vùng này tuy có tiềm năng và thế mạnh, nhưng vẫn còn yếu thế về nhiều mặt. Báo cáo của Ủy ban Dân tộc trình tại kỳ họp thứ 9 của Quốc hội khóa XIV cho biết, đây là vùng khó khăn nhất nước, còn nhiều điểm thấp nhất so với cả nước, khoảng cách chênh lệch về các mặt giữa các vùng và các dân tộc vẫn chưa được thu hẹp...

Triển khai, đưa Nghị quyết Ðại hội XIII vào cuộc sống, mong Ðảng và Nhà nước, các cấp ủy và tổ chức đảng, các cấp và các ngành cần đặc biệt quan tâm hơn nữa đồng bào các dân tộc thiểu số và vùng miền núi nước ta. Muốn đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của đồng bào các dân tộc thiểu số trong chiến lược phát triển đất nước, có nhiều việc phải làm. Ở đây, tôi xin gợi mở một số vấn đề.

1. Phải xác định đúng tầm vấn đề dân tộc, đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lớn trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Chúng ta không nên nghĩ rằng, "dân tộc là vấn đề cũ, đã giải quyết xong" mà phải thấy "vấn đề cũ" trong tình huống mới… Vấn đề dân tộc có tính đặc thù quan trọng, liên quan quốc gia và quốc tế, có tính thời sự cấp bách và rất nhạy cảm. Ðây là vấn đề vừa chiến lược cơ bản, lâu dài; đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của nước ta. Ở nước ta, nếu chúng ta chậm thực hiện việc thu hẹp khoảng cách chênh lệch về các mặt giữa các vùng và các dân tộc, nhất là trong lĩnh vực đời sống và công tác cán bộ dân tộc, văn hóa sẽ làm giảm lòng tin của đồng bào các dân tộc với Ðảng và Nhà nước. Ðể khoảng cách giàu - nghèo quá lớn, không có cách giải quyết tốt, sẽ dẫn đến mất ổn định chính trị - xã hội.

2. Báo cáo chính trị Ðại hội XIII đã nói về đầu tư phát triển vùng miền núi, dân tộc thiểu số. Có ý kiến cho rằng, chính sách kinh tế của ta đối với các dân tộc thiểu số như là "đổ dầu vào đèn, cháy hết rồi lại đổ cho đèn khỏi tắt"; hiệu quả kinh tế ít thành công, chưa phát huy được sức mạnh của các dân tộc trong phát triển kinh tế. Ðề nghị, từ nay các nghị quyết hay một chương trình cụ thể nào đó về đầu tư ở vùng miền núi, dân tộc thiểu số, phải bảo đảm quyền phát triển bình đẳng giữa các dân tộc; xây dựng và phát triển bền vững vùng miền núi, dân tộc thành động lực của phát triển đất nước. Ðược như vậy, mới đáp ứng lòng mong đợi của đồng bào các dân tộc; vì sự phát triển của từng dân tộc, vùng miền núi luôn gắn với sự phát triển chung của đất nước; đề cao được vai trò và vị trí của các dân tộc thiểu số như mong muốn.

3. Một số cán bộ và đồng bào các dân tộc có băn khoăn, chưa rõ tính khả thi về một số chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025 được đề ra trong Báo cáo chính trị. Như tỷ lệ nghèo đa chiều duy trì mức giảm từ 1-1,5% hằng năm. Liệu có thể giảm thêm được không? Nếu chỉ giảm được ở mức như vậy thì bao giờ có thể thu hẹp được khoảng cách giàu - nghèo giữa các dân tộc và giữa các vùng miền? Lâu nay có khẩu hiệu nói "vùng cao tiến kịp vùng thấp, miền núi tiến kịp miền xuôi", nhưng thực tiễn miền xuôi vẫn xây dựng và phát triển mạnh, có ngồi chờ miền núi tiến kịp đâu.

Một chỉ tiêu cần quan tâm là giữ tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42%. Chúng ta phải thấy thực tế về đất rừng của nước ta. Rừng tự nhiên ngày càng giảm, trồng ít, phá nhiều, 58% diện tích đất chưa có rừng che phủ, còn nhiều đồi núi trọc, đã và đang tác động lớn đến đời sống và sinh kế của đồng bào các dân tộc thiểu số. Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Lâm nghiệp năm 2017, nhưng thực tế thực thi Luật này ở nhiều nơi chưa được như mong muốn, còn nhiều bất cập. Ðồng bào dân tộc thiểu số ở vùng rừng núi chiếm khoảng 12 trong số 15 triệu người, là những người dân sinh ra từ rừng, cũng là "dân ăn rừng", họ nói "rừng là cha, đất là mẹ, đất và rừng nuôi người, sống rừng nuôi, chết rừng chôn", nhưng hiện nay họ không sống được bằng nghề rừng. Nếu chúng ta không sớm khắc phục được tình trạng "mất rừng là một nguy cơ lớn" thì sẽ còn liên tiếp xảy ra "thiên tai, nhân họa", gây thiệt hại nhiều về người và tài sản như ở miền trung mới đây. Ngày nay, bảo vệ và trồng rừng cũng là bảo vệ Tổ quốc. Hãy yêu rừng, bảo vệ rừng thì rừng sẽ che chở, bảo vệ người; ngược lại thì hậu quả thật khôn lường. Cần phải lấy người nuôi rừng, lấy rừng nuôi rừng, lấy rừng nuôi người.

4. Lịch sử cách mạng của đất nước ta đã cho thấy mọi việc đều bắt nguồn từ dân, quan điểm "dân là gốc" là bài học lớn được đúc kết suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước được Ðảng ta vận dụng thành công. Nhân dân là người hiện thực hóa được mục tiêu, lý tưởng mà Ðảng đề ra. Việc then chốt là "lấy dân làm gốc", phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Ðảng và Nhà nước, các cấp và các ngành phải đến với mọi người dân, nắm được lòng dân, nghe dân nói, làm cho dân tin. Phải phát huy và động viên được sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc, động lực chủ yếu để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; bảo đảm quyền dân chủ trực tiếp và gián tiếp của người dân, chịu sự giám sát và phản biện của dân, bảo đảm dân chủ và kỷ cương phép nước; mọi việc làm phải xuất phát từ lòng dân; bảo đảm và giải quyết được hài hòa lợi ích hợp pháp, chính đáng của dân, làm lợi cho dân hưởng, cho dân giàu, nước mạnh, làm cho dân tin, dân theo Ðảng đến cùng.

Từ đầu nhiệm kỳ Ðại hội XIII, Ðảng và Nhà nước có ngay "cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số" như Báo cáo chính trị Ðại hội XIII đặt ra. Ðiều này sẽ giúp đồng bào các dân tộc thiểu số thay đổi cách nghĩ, cách làm cũ, mở ra được cách nghĩ, cách làm mới, khắc phục được tư tưởng trông chờ, ỷ lại, đề cao được vai trò và vị trí, trách nhiệm của mình trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong chiến lược phát triển đất nước. Thực tiễn cho chúng ta bài học lớn: Việc làm tốt phải được nhân lên; việc khó phải được bàn bạc; việc xấu phải được đấu tranh. Việc gì chưa thống nhất thì trực tiếp đối thoại với nhau cho "thấu tình, đạt lý"; tuyệt đối không áp đặt, không làm thay, không để kẻ xấu lợi dụng xuyên tạc, kích động gây rối, phá hoại.

LÙ VĂN QUE

Ủy viên Ðoàn Chủ tịch Ủy ban T.Ư MTTQ Việt Nam, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc T.Ư

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu