Chuyển đến nội dung chính

Chuyển biến trong công tác bảo vệ, phát triển rừng ở Điện Biên

 

Người dân xã Pa Tần, huyện Nậm Pồ chăm sóc và bảo vệ rừng.

Liên tiếp trong hai năm 2019 và 2020, Điện Biên ghi nhận tỷ lệ che phủ rừng tăng. Cùng với đó, số vụ vi phạm pháp luật lâm nghiệp, số vụ cháy rừng cũng giảm. Đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) trên địa bàn được cải thiện từ việc chăm sóc và bảo vệ rừng.

Trao đổi kết quả công tác bảo vệ, phát triển rừng của Điện Biên trong thời gian qua, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Điện Biên Hà Lương Hồng cho biết: Dù gặp nhiều khó khăn do thiếu nhân lực và diện tích quản lý rừng lớn (hơn 694.000 ha rừng phòng hộ, rừng sản xuất, rừng đặc dụng), song năm 2020, tỷ lệ che phủ rừng của Điện Biên tiếp tục tăng 0,41% so năm 2019 đã góp phần nâng tỷ lệ che phủ rừng toàn tỉnh đạt 42,66%. Tổng kết giai đoạn 2015 - 2020, tỉnh đã hoàn thành mục tiêu nâng tỷ lệ che phủ rừng theo Nghị quyết Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIII đề ra. Kết quả đó không chỉ phản ánh nỗ lực của cán bộ, công chức ngành kiểm lâm mà đồng thời cho thấy ý thức bảo vệ, phát triển rừng của nhân dân các dân tộc, chính quyền các huyện, các ngành đã ngày càng nâng lên. Đặc biệt, với đồng bào các DTTS ở các huyện vùng cao, biên giới, như: Mường Nhé, Nậm Pồ, Tủa Chùa, Mường Chà... thì tỷ lệ che phủ rừng tăng lên, đồng nghĩa với việc đời sống bà con được nâng lên nhờ nguồn quỹ hỗ trợ từ dịch vụ môi trường rừng (DVMTR).

Mường Nhé là huyện biên giới nhiều năm "nóng" vì tình trạng dân di cư tự do và phá rừng, song mấy năm gần đây, với sự vào cuộc của cấp ủy, chính quyền địa phương, tình trạng dân di cư tự do vào địa bàn đã được kiểm soát; tình trạng phá rừng làm nương giảm rất nhiều. Tại các xã: Sín Thầu, Chung Chải, Leng Su Sìn... bà con các dân tộc: H’Mông, Hà Nhì, Si La... rất có ý thức với việc bảo vệ, chăm sóc rừng. Chủ tịch UBND xã Sín Thầu Pờ Chinh Phạ cho biết: Toàn xã có hơn 11.560 ha đất rừng, tỷ lệ che phủ rừng của xã đạt 71%, nhiều năm qua xã không xảy ra tình trạng phá rừng, cháy rừng hay mua bán, vận chuyển lâm sản trái phép, vì ngoài lực lượng kiểm lâm địa bàn thì mỗi người dân xã Sín Thầu cũng đều là những người giữ rừng. Hiện, toàn xã Sín Thầu có năm gia đình, bảy cộng đồng bản, gồm: A Pa Chải, Lỳ Mạ Tá, Pờ Nhù Khồ, Tả Ko Ki, Tả Ko Khừ, Tá Sú Lình, Tá Miếu được hưởng tiền DVMTR, cho nên bà con sống được nhờ rừng; ý thức bảo vệ, giữ rừng của nhân dân Sín Thầu rất tốt.

Gần với Mường Nhé là huyện biên giới Nậm Pồ có diện tích rừng lớn (hơn 60.000 ha), tỷ lệ che phủ toàn huyện đạt hơn 40% và hai năm qua Nậm Pồ cũng được ghi nhận là địa phương có nhiều chuyển biến trong công tác bảo vệ, phát triển rừng. Chủ tịch UBND huyện Nậm Pồ Bùi Văn Luyện cho biết: Cùng với tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, UBND huyện còn chỉ đạo các phòng, ban, chính quyền các xã đã chủ động phối hợp với lực lượng kiểm lâm nắm chắc thực trạng rừng để xây dựng phương án bảo vệ theo từng mùa. Đối với 137 chủ rừng đã được chi trả DVMTR thì hằng năm huyện đều yêu cầu ký cam kết phải bảo vệ nghiêm toàn bộ diện tích rừng đã được giao khoán chăm sóc, bảo vệ; thực hiện đúng các quy định phòng cháy, chữa cháy rừng.

Anh Poòng Văn Phong, người dân bản Pa Tần, xã Pa Tần (huyện Nậm Pồ) cho biết: Hằng năm, người dân bản Pa Tần đều được cán bộ kiểm lâm địa bàn, cán bộ địa chính xã hướng dẫn triển khai các biện pháp chăm sóc, bảo vệ rừng. Trước mỗi mùa khô, kiểm lâm viên địa bàn còn về từng bản hướng dẫn bà con cách làm đường băng cản lửa để bảo vệ rừng, tránh nguy cơ bị cháy lan khi bà con làm nương. Tiền DVMTR được chi trả hằng năm giúp các gia đình trong bản Pa Tần có đời sống tốt hơn; bà con không còn lo cái ăn cái mặc cho nên yên tâm chăm sóc, giữ rừng. "Như gia đình tôi, năm 2019 được nhận 22 triệu đồng tiền DVMTR, tôi đã mua được máy bừa để sản xuất nông nghiệp; góp phần tăng năng suất, giảm sức lao động. Nhiều nhà trong bản mua được xe máy, ti-vi hay đầu tư chăn nuôi lợn, gà vươn lên thoát nghèo" - anh Poòng Văn Phong vui vẻ cho biết thêm.

Tại huyện Tủa Chùa những năm gần đây đã giảm rất nhiều số vụ phá rừng, khai thác gỗ trái phép phần do ý thức người dân từng bước được nâng lên, phần nhờ nguồn quỹ DVMTR đã hỗ trợ bà con ổn định đời sống, yên tâm phát triển kinh tế gia đình thay vì "chăm chăm vào rừng chặt gỗ, làm nương như trước". Ông Thào A Chu, chủ rừng ở xã Trung Thu, huyện Tủa Chùa, cho biết: Khi được giao khoán rừng, gia đình tôi luôn ý thức, trách nhiệm trong việc bảo vệ rừng, thường xuyên tham gia tuần tra bảo vệ rừng của gia đình, cộng đồng. Mỗi năm, gia đình có thêm khoản thu hơn 10 triệu đồng tiền DVMTR cho nên có điều kiện mua sắm vật dụng sinh hoạt, sản xuất.

Đề cập hoạt động nguồn quỹ DVMTR của tỉnh Điện Biên, Giám đốc Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Điện Biên Đặng Thị Thu Hiền cho biết: Năm 2020 từ nguồn thu điều phối từ Quỹ DVMTR Việt Nam, thu ủy thác từ các nhà máy thủy điện trên địa bàn tỉnh, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Điện Biên đã chi trả hơn 161 tỷ đồng cho các chủ rừng, trong đó, thanh toán chi trả DVMTR năm 2019 gần 120 tỷ đồng; tạm ứng năm 2020 gần 40 tỷ đồng. Chính sách chi trả DVMTR trên địa bàn tỉnh Điện Biên thời gian qua đã góp phần tăng nguồn lực thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và phát triển rừng; đồng thời đem lại nguồn thu nhập ổn định cho người dân, tạo động lực khuyến khích người dân tích cực, chủ động tham gia các hoạt động quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Việc chi trả kịp thời tiền DVMTR đã góp phần tạo sự tin tưởng, yên tâm với các chủ rừng; đồng thời khích lệ chủ rừng, nhân dân tích cực hơn trong thực hiện nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ và phát triển rừng. Cùng với việc chi trả tiền DVMTR bằng tiền mặt, cán bộ Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng thường xuyên phối hợp các cấp hội tại địa phương tuyên truyền, hướng dẫn các chủ rừng mở tài khoản ngân hàng hoặc giao dịch thanh toán điện tử giúp chủ rừng thuận lợi hơn trong việc nhận tiền DVMTR. Trong năm 2020 có thêm 161 chủ rừng mở tài khoản Viettel Pay, nâng tổng số chủ rừng mở tài khoản ngân hàng lên 2.158 người.

Ngoài chi trả đúng, đủ tiền DVMTR đến chủ rừng, trong dịp đầu năm học mới Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Điện Biên đã tổ chức trao 50 nghìn vở viết, 2.000 ba-lô, 2.000 áo khoác tặng học sinh trường THCS thuộc các huyện: Điện Biên, Điện Biên Đông, Tuần Giáo và thành phố Điện Biên Phủ. Quỹ tổ chức 48 buổi tuyên truyền về Luật Lâm nghiệp và Nghị định 156/2018/NĐ-CP hướng dẫn viết sổ tay chi trả DVMTR đến 1.076 chủ rừng là cộng đồng, hộ gia đình thuộc các huyện: Mường Nhé, Nậm Pồ, Điện Biên, Điện Biên Đông... Qua các hoạt động đó, góp phần quan trọng nâng cao ý thức nhân dân với công tác bảo vệ, phát triển rừng.

Bài và ảnh: LÊ LAN

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu