Chuyển đến nội dung chính

Trồng cây - giữ rừng

 Nằm ở vị trí địa lý thuận lợi, với đặc trưng khí hậu nhiệt đới có gió mùa, thiên nhiên đã ưu đãi ban cho dải đất hình chữ S ven bờ Thái Bình Dương của chúng ta những điều kiện vô cùng thuận lợi để phát triển trồng cây, trồng rừng.

Với tầm nhìn chiến lược của một thiên tài, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, miền Bắc bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy lợi ích của việc trồng cây. Ngày 30.5.1959, lấy bút danh Trần Lực, Bác viết bài “Nông dân phải trồng cây chuẩn bị làm nhà ở”, đăng trên Báo Nhân dân số 1901. Người căn dặn: “Ngay từ bây giờ, đồng bào nông dân phải bắt tay vào việc chuẩn bị vật liệu làm nhà: Mỗi người (trong mỗi gia đình, tính cả già, trẻ, gái, trai) phải trồng ít nhất là 5 cây (cây xoan và các thứ cây khác có thể làm kèo, làm cột). Và mỗi gia đình phải trồng một bụi tre”. Mượn ý người xưa, Bác căn dặn đồng bào: "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người", trồng cây là "ta làm cho ta và cho con cháu đời sau". Đầu Xuân Canh Tý 1960, Bác làm hai câu thơ: "Mùa Xuân là Tết trồng cây. Làm cho đất nước càng ngày càng xuân" gửi đồng bào miền Bắc. Từ đó, Tết Trồng cây đã trở thành một mỹ tục trong đời sống mỗi khi đến độ xuân về, thành phong trào tự giác trong mọi tầng lớp nhân dân, từ nam, phụ, lão, ấu. Đầu xuân, khắp thôn quê, phố phường, nhà trường, công sở... rộn rã tiếng trống tiếng loa cổ vũ cho Tết trồng cây. Các cụ cao niên khăn đóng áo dài, tráng niên chít khăn đầu rìu, thắt lưng vàng đỏ, các em thiếu nhi cổ quàng khăn đỏ náo nức như đi trảy hội, bừng bừng khí thế thực hành "Tết trồng cây" theo lời Bác Hồ dạy với những chỉ tiêu cụ thể. Những "Vườn cây Bác Hồ", "Ao cá Bác Hồ", những con đường cây xanh "ông trồng cháu chăm" của các tổ chức hội, đoàn thể phụ lão, thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi... có mặt ở mọi nơi. Chỉ trong mười năm (1960 - 1970), đã có hàng trăm triệu cây xanh được trồng, như Bác mong muốn "làm cho nước ta phong cảnh sẽ ngày càng tươi đẹp hơn, khí hậu điều hòa hơn, cây gỗ đầy đủ hơn. Điều đó sẽ góp phần quan trọng vào việc cải thiện đời sống của nhân dân ta” (Hồ Chí Minh - Báo Nhân Dân số 2082 ngày 28.11.1959).

Đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống ở những vùng núi cao, đời sống gắn bó với rừng cây. Hầu như dân tộc nào cũng có lễ hội Cúng thần rừng vào mùa xuân. Rừng trong tâm thức họ như trái tim của cộng đồng, được tôn thờ, sùng kính như với ông bà, tổ tiên. Những khu rừng cấm thường gắn với truyền thuyết, giai thoại, không ai dám xâm phạm dù chỉ là hái một ngọn măng, chặt một cành cây, săn bắt một con chim, con thú. Luật tục truyền đời nghiêm khắc cấm, tuyệt đối không được chặt cây rừng đầu nguồn nước. Những nơi rừng khai thác thì chặt một cây to phải trồng bù 5 đến 10 cây mới, cấm không được phát quang, đốt rừng làm nương. Những luật tục ấy cho thấy, bà con đã đạt đến trình độ văn minh cao, nhận thức được giá trị của rừng trong đời sống và sản xuất: Bảo vệ rừng là bảo vệ môi trường, giữ cân bằng sinh thái.

Năm 2010, thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa X về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”, Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, Thủ tướng Chính phủ - Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương đã phát động phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị tham gia chung tay, góp sức xây dựng nông thôn trù phú, ấm no, văn minh, hiện đại, giàu đẹp, giữ vững bản sắc và an ninh trật tự. Một trong những tiêu chí của "Nông thôn mới" là chỉ tiêu cây xanh: Tối thiểu 90% hộ canh tác trồng trọt có vườn đạt các yêu cầu hơn 35% diện tích cây xanh/tổng diện tích đất vườn; hơn 50% diện tích cây cho sản phẩm hàng hóa chủ lực/diện tích trồng cây... Đến nay, phong trào xây dựng nông thôn mới đã gắn với xây dựng đô thị văn minh, trong đó cây xanh vẫn là một chỉ tiêu quan trọng.

Giữa những năm 1960, theo cơ quan mẹ đi sơ tán về Lục Nam, Bắc Giang tránh bom Mỹ, lũ trẻ chúng tôi còn được vào rừng, bới những lớp lá cây rơi dày trên mặt đất, tìm nhặt hạt dẻ rụng xuống từ những cây cổ thụ cao vút. Đầu những năm 1970, trước khi lên đường ra mặt trận, tôi được bạn gái đưa về thăm miền Trung du quê cô. Lần đầu tiên đi trên con đường đất quanh co uốn lượn giữa những rừng cọ, đồi chè, nương sở, nương trẩu, mắt đầy ắp màu xanh của cây lá, thấy lòng thanh thản, phơi phới một niềm vui trong trẻo. Những năm chiến tranh ác liệt, tôi và bạn bè, đồng đội tôi đánh địch trên mọi chiến trường, từ Bình Trị Thiên khói lửa, Nam Trung Bộ kiên cường đến Miền Đông gian lao mà anh dũng đã giấu mình trong rừng, nhờ rừng che chở để diệt thù. Những binh đoàn quân giải phóng trùng điệp xe tăng, pháo lớn, tên lửa; những sân bay dã chiến và hàng chục vạn cây số Đường Hồ Chí Minh đã nương vào rừng, vào cây mà đánh giặc. Những bàn chân trần, những bàn chân đi dép caosu đã lội qua những rừng đước Cà Mau, những cánh rừng săng lẻ, rừng khộp để tiến về giải phóng Sài Gòn. Hàng vạn galon chất độc da cam người Mỹ ném xuống, rải xuống không hủy diệt được màu xanh của rừng nhiệt đới Việt Nam. Có một cây là có rừng và rừng đã lên xanh, rừng giữ đất quê hương.

Lợi ích của việc trồng rừng, giữ rừng ai cũng biết, nhưng thẳng thắn nhìn nhận, mấy chục năm qua, việc trồng cây, giữ rừng chưa được như mong muốn của Bác Hồ, của nhân dân.

Diện tích rừng tự nhiên ở nước ta có xu hướng ngày càng thu hẹp. Năm 1943, cả nước có 14,3 triệu ha rừng, tất cả đều là rừng tự nhiên, độ che phủ đạt 43% diện tích lãnh thổ. Sau những nỗ lực của ngành Nông nghiệp, đến năm 2010, độ che phủ rừng tăng lên được 39,5%, trong đó chủ yếu là rừng sản xuất. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính đến hết ngày 31.12.2019, tổng diện tích đất có rừng toàn quốc là hơn 14,6 triệu ha, trong đó rừng tự nhiên gần 10,3 triệu ha, rừng trồng hơn 4,3 triệu ha. Diện tích đất có rừng đủ tiêu chuẩn để tính tỉ lệ che phủ toàn quốc là hơn 13,8 triệu ha, tỉ lệ che phủ là 41,89%. Nhưng tính xác thực của số liệu còn là vấn đề cần được kiểm chứng, khi bệnh thành tích còn nặng, hiểu biết, nhận thức về cây, về rừng còn chưa đầy đủ, chưa khoa học và ngày càng lộ rõ những toan tính trục lợi từ rừng.

Mấy năm gần đây, Tết trồng cây và nghi thức trồng cây lưu niệm ngày càng nặng tính hình thức, nhiều khi gây phản cảm, phản ứng trong nhân dân. Năm 2020, lần đầu tiên trong lịch sử, đất nước Việt Nam vốn chưa giàu mạnh gì xảy ra thiên tai, bão lũ nghiêm trọng kéo dài suốt một dải miền Trung. Phân tích nguyên nhân, nhiều chuyên gia về môi trường nhận định, ngoài tác động của biến đổi khí hậu, hiện tượng El Nino hoành hành, là tác động của việc phá rừng, đánh đổi lợi ích lâu dài do rừng đem lại lấy lợi ích kinh tế ngắn hạn.

Trước nguy cơ rừng bị tàn phá, giảm sút nghiêm trọng, Thủ tướng Chính phủ đã nhiều lần ra lệnh đóng cửa rừng, nhưng xem ra hiệu quả không cao, nạn lâm tặc phá rừng không có dấu hiệu bị ngăn chặn.

Để tư tưởng Hồ Chí Minh về trồng cây "làm cho đất nước càng ngày càng xuân", rất cần một chính sách có tầm nhìn chiến lược và những biện pháp hiệu quả của Đảng, Nhà nước. Trồng cây phải gắn với giữ rừng.

NGUYỄN NĂNG LỰC

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu