Chuyển đến nội dung chính

Báu vật của làng

 

Trong khi nhiều nơi rừng đã bị xóa sổ thì ngay tại vùng lắm bão nhiều lũ là miền Trung vẫn có những khu rừng tự nhiên được chính cộng đồng dân cư ở đó chung tay giữ gìn như báu vật

Đó là rừng ở làng Phú Thọ (xã An Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình), thôn Ruộng (xã Hướng Tân, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị), thôn Nghi Sơn (xã Quế Hiệp, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam) và các thôn Lương Nông Bắc, Lương Nông Nam, Đôn Lương (xã Đức Thạnh, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi).

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù

Dân làng Phú Thọ gọi rừng lộc vừng của làng là rừng mưng. Rừng nằm giữa một bàu nước mênh mông với hơn 300 cây mưng cổ thụ, có cây 2-3 người ôm không xuể. Đến mùa hoa nở, từng chùm đỏ thắm, hương thơm phảng phất khắp đầu làng ngõ xóm.

Báu vật của làng - Ảnh 1.

Một gốc cổ thụ hàng trăm năm tuổi tại rừng của thôn Ruộng (xã Hướng Tân, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị) Ảnh: ĐỨC NGHĨA

Ông Nguyễn Văn Ngọ (65 tuổi, ngụ làng Phú Thọ) cho biết làng nằm trên bãi cồn nổi giữa bốn bề sóng nước của phá Hạc Hải nên mỗi khi mưa lũ, bão tố, sóng nước dồn vào, dân làng phải vất vả chống đỡ. Bởi vậy, ngay khi lập làng, tiền nhân đã tìm kiếm hàng ngàn cây mưng về trồng quanh làng. Mưng sống mãnh liệt cả trên cạn lẫn trong sình lầy.

"Qua vài trăm năm, rừng mưng trở thành lá phổi xanh bảo vệ làng trước những tai ương sóng gió. Đến mùa bão lũ, rừng giúp làng giữ nhà, giữ vườn. Với làng này, rừng mưng như báu vật vô giá" - ông Ngọ nói.

Trong những năm kháng chiến, ban ngày bộ đội chọn rừng mưng làm nơi trú ẩn, ban đêm tổ chức đánh đồn An Lạc của Pháp đóng cách đó chừng 1 km. Thấy vậy, quân Pháp đến chặt hết rừng mưng không sót cây nào. Người làng xót xa như da thịt mình bị cắt. Tưởng thế là xong. Nhưng rừng mưng vẫn kiên cường như chính người dân ở đây, vẫn đâm chồi, tái sinh. Đến thời chống Mỹ, rừng mưng lại trở thành thao trường để bộ đội huấn luyện ngay dưới những làn mưa bom dội từ máy bay giặc.

Cũng như rừng mưng của làng Phú Thọ, gần 160 ha rừng đang được bảo tồn ở thôn Ruộng tuy là cây rừng nhưng vẫn là rừng trồng, được nhiều thế hệ của 140 hộ người đồng bào Vân Kiều gìn giữ, bảo vệ. Đường dẫn vào thôn Ruộng xuyên qua những tán lá rộng. Từ trên cao nhìn xuống, khu rừng như tấm bình phong choãi mình ra che chắn cho làng.

Ông Hồ Cập, già làng của thôn Ruộng, kể ngày xưa quanh thôn rừng mênh mông, cây to vài người ôm không xuể. Dân làng thi thoảng vẫn thấy hổ, báo vờn mồi. Nai, mang, heo thì vô kể. Nhưng trong kháng chiến, đạn bom cày xới tan hoang, cây chết đứng vì chất độc hóa học. Dân làng phải di tản đến biên giới Việt - Lào tránh bom đạn, chỉ còn lại số người bám trụ theo bộ đội đánh giặc.

Khi tỉnh Quảng Trị giải phóng, dân làng dắt díu nhau về. Làng xác xơ, ai cũng nước mắt ngắn dài, nén đau thương trồng lại rừng với mong muốn sẽ thấy lại màu xanh của đại ngàn ngày nào.

Còn khoảng 10 ha rừng mang tên Cấm Miếu tại thôn Nghi Sơn thì là rừng nguyên sinh nằm giữa khu dân cư với nhiều cây quý như lim, sơn, mít nài, hoảnh… Có cây đường kính hơn 1 m. Nằm giữa làng nhưng rừng vẫn không có lối mòn nào. Cây lớn, cây nhỏ đan xen rậm rịt, rêu xanh phủ kín. Khắp rừng đầy tiếng thú kêu, chim hót.

Nhắc đến Nghi Sơn, người ta nghĩ ngay đến lễ hội Khai Sơn nổi tiếng tổ chức thường niên vào ngày 8 tháng giêng, nhằm ghi ơn công đức tiền nhân, dâng hương thần núi, cầu mong điều tốt lành cho mọi nhà. Lễ hội trang trọng, không chỉ dân địa phương tham gia mà còn thu hút hàng ngàn người khắp nơi kéo đến thắp hương, khấn cầu mong năm mới bình an, may mắn. Sử sách ghi khoảng cuối năm 1471, khi vua Lê Thánh Tông cầm quân vào Nam, dân Đàng Ngoài di cư theo, vào khai khẩn, lập làng ở vùng đất này.

Ông Trần Quốc Toàn, Bí thư Chi bộ kiêm Trưởng Ban Công tác Mặt trận thôn Nghi Sơn, cho biết xưa nay dân Nghi Sơn ai cũng có ý thức bảo vệ khu rừng này vì họ xem như báu vật. Dân truyền nhau rằng ai vào săn thú, chặt cây đều bị "thần linh" phạt cho đau ốm hay gặp họa.

Cách thị trấn Mộ Đức của Quảng Ngãi chừng 3 km về phía biển là hơn 17 ha của rừng Nà, trải dài qua 3 thôn Lương Nông Bắc, Lương Nông Nam, Đôn Lương của xã Đức Thạnh. Ở đây vẫn còn nguyên vẹn nhiều hệ động thực vật. Người dân Đức Thạnh không biết chính xác rừng Nà bao năm tuổi; chỉ biết lớn lên đã sống dưới tán rừng, dù giữa những trận cuồng phong, bão tố, bom đạn chiến tranh.

Ông Đào Văn Bá (66 tuổi, ngụ xã Đức Thạnh), kể: "Hồi nhỏ, chúng tôi thả trâu bò trên đồng lúa rồi vào rừng lượm củi. Lớn lên thì tham gia kháng chiến, dựa vào rừng Nà đánh địch. Năm 1974, địch mở chiến dịch phá rừng Nà để diệt bộ đội. Dân phản kháng quyết liệt, chấp nhận hy sinh chứ không phá rừng, nhờ thế rừng mới xanh tốt đến nay. Cả trong bão số 9 khủng khiếp vừa qua, rừng vẫn nguyên vẹn".

Những năm 1930-1931, rừng Nà là nơi một số lãnh đạo chủ chốt của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi sử dụng làm căn cứ hoạt động. Đến năm 1965 thì rừng Nà thành căn cứ hoạt động cách mạng cho đến ngày giải phóng. Căn cứ rừng Nà cũng đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.

Giữ rừng bằng hương ước

Đối với làng Phú Thọ, để có khu rừng mưng như hiện nay là nhờ các thế hệ dân làng tiếp nhau canh giữ nghiêm ngặt. Làng có hương ước, ghi rõ: "Bảo vệ rừng mưng cổ thụ, bất cứ ai xâm phạm nơi linh thiêng ấy sẽ bị trừng trị nghiêm minh".

Thôn Ruộng cũng đặt ra luật lệ vừa nghiêm khắc vừa thấu tình đạt lý để giữ rừng. Dù không lập văn bản, chỉ truyền miệng nhưng từ già đến trẻ đều rõ. "Ai tự ý chặt chỉ một cây lần đầu sẽ bị đưa ra trước toàn thôn để nhắc nhở, khiển trách. Tái phạm thì phạt cúng heo, cúng gà. Chặt nhiều cây một lúc hoặc chặt đến lần thứ ba thì báo công an, kiểm lâm xử lý" - già làng Hồ Cập nghiêm nghị nói.

Theo già làng Hồ Cập, nếu người dân cần gỗ để làm nhà thì phải viết đơn trình làng. Nếu thấy nhu cầu chính đáng, làng sẽ trình lên xã, lên kiểm lâm để xin ý kiến. Khi nào các cấp đồng ý, người dân mới được hạ cây. Trong quá trình này, làng sẽ cử người túc trực, giám sát. "Bất kể ai vi phạm đều xử lý nghiêm theo lệ làng. Vì thế, những người có dã tâm phá rừng đều chùn tay. Rừng còn là nhờ vậy" - già làng thôn Ruộng khẳng định.

Anh Hồ Văn Đu, trưởng thôn Ruộng, nói: "Lâu nay, dân địa phương không hề phá rừng. Nhưng rừng cũng vừa bị phá khá nhiều" - anh Đu nén tiếng thở dài rồi nói rõ rằng đấy là do mưa bão dồn dập làm nhiều cây bật gốc, gãy đổ. Có cây to đến vài người ôm, cao hàng chục mét, dân làng ai cũng xót, vì để rừng tồn tại đến hôm nay thì không chỉ nhờ lực lượng bảo vệ rừng mà là cả thôn cùng chung tay.

Rừng Cấm Miếu được giữ gìn tốt đến bây giờ cũng nhờ vậy. Không rõ từ lúc nào làng Phú Thọ đã có hương ước, ghi rõ không ai được tùy tiện đốn, chặt cây, săn bắt thú trong rừng. Mọi người đều có nghĩa vụ bảo vệ và tố giác những ai vi phạm. Người vi phạm tùy mức độ nặng nhẹ sẽ bị phạt từ 1-10 ang lúa, cống nạp lợn, trâu cho làng, thậm chí có thể bị trục xuất khỏi làng.

Nhờ bản hương ước này, rừng Cấm Miếu được bảo vệ nghiêm ngặt. Những người già kể hồi xưa, cứ vài năm một lần, lý trưởng phát động dân vào rừng thu dọn gỗ mục mang về phục vụ làng. Có thời điểm rừng có những cây lim, hoảnh 4-5 người ôm không xuể. Tiếc là chiến tranh, bom đạn dội xuống làm nhiều cây chết đứng. Sau giải phóng, dân làng tiếp tục duy trì hương ước để giữ rừng cho tới bây giờ.

Giá nào cũng không bán

Ngày trước, mưng chẳng mấy quý giá. 10 năm gần đây, mưng thành cây quý, bán giá rất cao trên thị trường. Dân chơi cây cảnh xem đây là cây phong thủy nên săn lùng ráo riết. Rừng ở thôn Phú Thọ thành đích ngắm của không ít thương lái. Nhưng tất cả đều nhụt chí ra về vì có ai bán đâu mà mua.

Theo ông Lê Văn Thương, trưởng thôn Phú Thọ, dân làng sinh sống bằng nghề nông, đời sống khó khăn nhưng chưa ai dám nghĩ chuyện trộm mưng đem bán. 5-6 năm trước, nhiều thương lái tận Hà Nội, Hải Phòng vào trả 1 cây mưng cổ thụ giá đến mấy tỉ đồng. Họ đến tận nhà cán bộ thôn, đưa tiền vàng mua chuộc nhưng không được. Nhiều nhóm lợi dụng ban đêm, từ xa phóng xe về, vào rừng lén hạ cây nhưng không vụ nào thoát khỏi sự cảnh giác của dân" - ông Thương nói.

Thấy rừng mưng liên tục bị đe dọa, làng Phú Thọ lập tổ bảo vệ, các thành viên là trai tráng trong làng cắt cử, thay nhau canh giữ suốt ngày đêm. Bởi thế, từ đó đến nay chẳng ai dám bén mảng tới rừng. Hàng trăm cây mưng cổ thụ vẫn nguyên vẹn, hiên ngang tỏa bóng.

Ông Lê Văn Quyết, Chủ tịch UBND xã An Thủy, cho hay xã này đã xây dựng nghị quyết, giao cho dân ở thôn Phú Thọ bảo vệ nghiêm ngặt rừng lộc vừng. Đồng thời, chỉ đạo thôn cải tạo số diện tích bàu quanh rừng mưng nhằm hướng tới quy hoạch thành sản phẩm du lịch của địa phương.

Chính quyền không đứng ngoài cuộc

Ông Nguyễn Ngọc Tài, một người dân sống cạnh rừng Nà, cho hay những năm mới giải phóng, có thời điểm rừng bị xâm hại do dân tứ xứ về lấn chiếm, lấy đất làm nhà. Do dân trong thôn phản ứng quyết liệt, chuyện phá rừng Nà nhờ thế giảm dần, sau này cấm tuyệt đối.

Ông Phan Tấn Thế, Bí thư chi bộ thôn Lương Nông Nam, nhớ khi hòa bình lập lại, để bảo vệ rừng Nà, các vị cao niên bàn rất nhiều lần để tìm cách giữ. Vì giữ được rừng mới giữ được nguồn nước sinh hoạt, tưới tiêu cho đồng ruộng. Hồi đó chưa có thủy lợi nên nước sinh hoạt, sản xuất khan hiếm. Việc này được bàn ra dân, dân ủng hộ hết mình.

"Tôi nhớ, hương ước giữ rừng lập ra, tất cả các chủ hộ đều điểm chỉ vào đó. Nay hương ước thất lạc nhưng người dân đều tuân thủ, không dám xâm phạm rừng Nà" - ông Thế kể rồi nói thêm rằng ý thức bảo vệ rừng Nà của người dân đã ăn sâu vào suy nghĩ. Ngay cả trong bão vừa qua, một số cây lớn ở bìa rừng gãy nhánh, đổ vào nhà dân nhưng cũng không ai dám tự ý chặt bỏ. Khi phát hiện có người vào rừng săn bắt, dân liền báo ngay cho chính quyền địa phương.

Ông Phan Đức Tám, quyền Chủ tịch UBND xã Đức Thạnh, thông tin: "Để bảo vệ tuyệt đối rừng Nà, UBND xã Đức Thạnh cũng đã dựng cọc, đắp bờ bao làm ranh giới tiếp giáp giữa rừng với các khu dân cư. Xã cũng giao cho các thôn có rừng cử những người uy tín lập ra hương ước, ban thôn bảo vệ rừng Nà. Khi phát hiện trường hợp nào xâm phạm rừng, các ban thôn sẽ căn cứ mức độ vi phạm để xử phạt".

Anh Hồ Văn Đu cũng nói ngoài luật lệ truyền miệng, thôn Ruộng còn lập 4 tổ bảo vệ, mỗi tuần một lần băng rừng tuần tra. Nhờ vậy, các dấu hiệu xâm phạm rừng đều được phát hiện, ngăn chặn kịp thời.

Bảo vệ rừng mưng

cổ thụ, bất cứ ai xâm phạm nơi linh thiêng ấy sẽ bị trừng trị nghiêm minh.

Giữ rừng mới giữ được làng

Ông Hồ Văn Lâng (74 tuổi, ngụ thôn Ruộng) khẳng định người dân trong thôn giữ rừng trên tinh thần tự nguyện. Các thế hệ tiếp nối tinh thần gìn giữ cánh rừng chung ấy. "Chúng tôi xác định giữ rừng mới giữ được làng, giữ được nguồn nước cũng như không khí trong lành. Rừng ở thôn Ruộng chẳng khác gì báu vật truyền đời" - ông Lâng bộc bạch.

Giờ đây, ông Lâng cũng như già làng Hồ Cập không còn khỏe để lội suối, băng đèo tuần tra rừng như trước. Việc này đã có lớp trẻ gánh vác. Họ lui về bên bếp lửa nhà sàn và năng kể chuyện giữ rừng cho con cháu nghe. Và khi nào cũng vậy, cuối câu chuyện họ thường đúc kết một câu để thế hệ sau ghi tâm: "Giữ được rừng mới giữ được làng!".

Cha ông họ ngày trước cũng từng dặn dò y như thế!

Hoàng Phúc - Đức Nghĩa - Trần Thường - Tử Trực

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu