Chuyển đến nội dung chính

Trên 1,1 triệu ha đất nông nghiệp Tây Nguyên đã bị thoái hóa nặng

 Có nhiều nguyên nhân làm cho đất Tây Nguyên bị suy thoái, song tựu trung lại chủ yếu do tác động chính từ con người.

Đất trồng cà phê bị thoái hóa – Trồng tái canh, cây cà phê sinh trưởng kém. Ảnh: Trương Hồng.

Đất trồng cà phê bị thoái hóa – Trồng tái canh, cây cà phê sinh trưởng kém. Ảnh: Trương Hồng.

Đất bị thoái hóa được hiểu là đất bị thay đổi những đặc tính và tính chất vốn có ban đầu (theo chiều hướng xấu) do sự tác động của các yếu tố tự nhiên và con người. Các nhà khoa học đã nghiên cứu và xếp đất thoái hóa vùng Tây Nguyên theo 4 mức độ: Không và thoái hóa nhẹ có diện tích là 1,84 triệu ha (chiếm 33,7%); thoái hóa trung bình có 2,5 triệu ha (chiếm 45,8%); thoái hóa nặng 1,123 triệu ha (chiếm 20,5%).

Hệ lụy của thoái hóa đất là làm suy giảm độ phì nhiêu của đất được thể hiện qua các chỉ tiêu như đất bí chặt, chua mạnh, khả năng giữa ẩm, giữ dinh dưỡng kém; hiệu quả sử dụng phân bón thấp; hệ vi sinh vật đất chủ yếu là vi sinh vật gây hại; sâu bệnh hại từ đất phát triển nhanh và mạnh ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp do năng suất, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành sản xuất cao dẫn đến nguy cơ đi ngược lại mục tiêu phát triển nông nghiệp bền vững trong tương lai của vùng.

Có nhiều nguyên nhân làm cho đất Tây Nguyên bị suy thoái, song tựu trung lại nguyên nhân chủ yếu do tác động chính từ con người.

Độc canh 

Tây Nguyên là vùng chuyên canh cà phê, hồ tiêu… của Việt Nam chiếm tỷ lệ tương ứng là 88% và 63%. Điều này cũng thể hiện tình trạng độc canh rõ nét trong canh tác hiện nay. Diện tích cà phê, hồ tiêu tăng nhanh không kiểm soát được vào các giai đoạn giá cả tăng cao, người dân ồ ạt phát triển diện tích ngay trên cả các loại đất, địa hình không phù hợp, làm phá vỡ cân bằng hệ sinh thái. Cho dù đất mới khai phá để trồng trọt ban đầu có độ phì nhiêu màu mỡ song sau một thời gian canh tác độc canh sẽ dẫn đến đất bị thoái hóa theo con đường bạc màu hóa (đất chua, mất chất hữu cơ, mất kết cấu đất, suy giảm chất dinh dưỡng), làm cho sức khỏe của đất bị giảm sút; sức sản xuất kém, năng suất cây trồng thấp và bấp bênh.

Trên 1,1 triệu ha đất nông nghiệp ở Tây Nguyên bị thoái hóa nặng. Ảnh: Trương Hồng.

Trên 1,1 triệu ha đất nông nghiệp ở Tây Nguyên bị thoái hóa nặng. Ảnh: Trương Hồng.

Các nghiên cứu của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên cho thấy rằng, trong vòng 30 năm, đất canh tác độc canh cà phê đã bị chua hóa nhanh; bình quân pH đất đã giảm từ 0,5 – 1,2 đơn vị; hàm lượng các cation kiềm thổ giảm 40 – 70%; dung tích hấp thu của đất (CEC) giảm 30 – 40%; đã xuất hiện tầng tích sét ở độ sâu 30 – 40 cm; hàm lượng hữu cơ giảm 20 – 40%; đất bí chặt, thoát nước kém dẫn đến gia tăng cường độ xói mòn đất trên bề mặt sau các cơn mưa trên đất dốc. Quá trình chua hóa, giảm hàm lượng hữu cơ, các cation kiềm thổ xảy ra với tốc độ nhanh, rõ hơn trên đất canh tác cà phê có độ dốc từ 7 – 15%; trồng trần (không có cây che bóng). Ở các vùng trồng sắn với địa hình dốc (thường là trên 8%), việc canh tác không đi đôi với biện pháp chống xói mòn và rửa trôi đất của đại đa số đồng bào dân tộc thiểu số và hộ nông dân nghèo đã làm cho đất bị suy thoái nhanh chóng, mất sức sản xuất. Trên các diện tích này sau 2 – 3 năm canh tác sắn, hàm lượng hữu cơ đã suy giảm 40 – 60%; đất bí chặt, trơ sỏi đá, năng suất giảm tới 50 – 70% so với đất mới khai phá ban đầu.

Sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hóa học quá mức

Đây là nguyên nhân gây thoái hóa đất phổ biến ở vùng Tây Nguyên hiện nay. Do tác dụng của phân hóa học nhanh, hiệu lực tức thì nên nông dân sản xuất nông nghiệp quan tâm đầu tiên đến việc sử dụng phân hóa học để mong đạt được năng suất, thu nhập cao. Có tới 60% nông dân trồng cà phê và 45% nông dân trồng tiêu sử dụng phân bón là không hợp lý, mất cân đối và 70% nông dân bón phân hóa học với liều cao hơn nhiều so với khuyến cáo và so với năng suất đạt được. Lượng phân đạm được nông dân bón cho cây thường rất cao, có khi cao hơn 300% so với khuyến cáo; tiếp đến là lượng lân cao hơn từ 50 – 200%; kali đa phần bón thấp hơn so với khuyến cáo; đặc biệt khi giá nông sản cà phê, hồ tiêu cao thì có đến 90 – 100% hộ nông dân bón phân hóa học cao hơn với mong muốn đạt được năng suất và thu nhập tối đa. Tỷ lệ hộ nông dân quan tâm đến phân hữu cơ còn thấp, chỉ khoảng 40%. Các nghiên cứu cũng đã chứng minh rằng việc sử dụng phân hóa học với lượng cao nhiều năm liên tục đã làm cho tốc độ chua hóa của đất nhanh hơn; chất hữu cơ bị suy giảm nhanh hơn; CEC giảm nhanh hơn; hệ vi sinh vật có hại trong đất phát triển nhanh hơn và do vậy chất lượng đất bị suy giảm cũng nhanh hơn. Bằng chứng cho thấy rằng trên các diện tích trồng cà phê, hồ tiêu bón phân hóa học với liều cao nhiều năm sau đó trồng tái canh thì sinh trưởng, phát triển của cây chậm hơn và tỷ lệ cây bị còi cọc, bị chết cũng cao hơn so với diện tích sử dụng phân hóa học hợp lý, cân đối.

Theo quy luật tự nhiên, khi trồng trọt chuyên canh và càng thâm canh cùng với tác động của biến đổi khí hậu thì ngày càng xuất hiện nhiều loại dịch hại trên đồng ruộng. Để bảo vệ thành quả lao động, người nông dân đã sử dụng các loại thuốc BVTV hóa học với số lượng, chủng loại ngày càng gia tăng; phun với nồng độ và cả liều lượng, tần suất cao hơn so với khuyến cáo; đặc biệt vào các thời điểm giá nông sản cao. Điều này dẫn đến sự nghèo kiệt về tính đa dạng sinh học; mất cân bằng về thiên địch; cân bằng hệ vi sinh vật trong đất bị phá vỡ; hình thành nhiều quần thể có hại cho đất và cây trồng; từ đó đất đai bị ô nhiễm, suy thoái, mất sức sản xuất.  

Ngoài ra, xét về khía cạnh sinh thái thì bón phân hóa học với liều cao nhiều năm liên tục, lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật hóa học dẫn đến nguy cơ gây ô nhiễm môi trường sinh thái và ảnh hưởng đến vệ sinh an toàn thực phẩm.

Phá rừng 

Rừng bị chặt phá lấy đất canh tác.
Rừng bị chặt phá lấy đất canh tác.

Rừng bị chặt phá lấy đất canh tác.

Tình trạng chặt phá rừng để lấy đất canh tác, dễ dàng nhận thấy ở những vùng sâu vùng xa, dân tộc thiểu số, có khi dọc các trục đường giao thông chính; đặc biệt là các thời điểm giá cả của sản phẩm một số loại cây trồng ở mức cao, điển hình là cà phê vào những năm 1990; hồ tiêu vào những năm 2014 - 2016. Rừng bị chặt phá làm cho đất không còn lớp phủ thực vật bảo vệ hoặc có thì độ che phủ kém nên đất nhanh chóng bị mất đi độ màu mỡ, các chất hữu cơ bị đốt cháy, đất bị xói mòn, bạc màu dần. Tốc độ thoái hóa của đất tỷ lệ với mức độ che phủ, lượng mưa và độ dốc của đất. Hàng năm Tây Nguyên bị mất đi một lượng đất vào khoảng 167 triệu tấn, trung bình một ha đất tự nhiên mất gần 29,7 tấn/năm. Lượng đất mất kéo theo một lượng đáng kể chất dinh dưỡng bị mất; cùng với lượng đất mất do xói mòn sẽ bồi lắng sông suối và các công trình thủy lợi, thủy điện làm ảnh hưởng đến an toàn hồ đập trong mùa mưa. Do đất rừng chủ yếu là đất dốc, trong quá trình canh tác không quan tâm đến các biện pháp chống xói mòn, rửa trôi đất vào mùa mưa, giữ ẩm cho mùa khô hay thậm chí không quan tâm bón phân hữu cơ cho đất. Điều này dẫn đến tình trạng sau khoảng vài năm canh tác đất bị suy kiệt về dinh dưỡng, mất kết cấu, các cation kiềm, kiềm thổ bị mất theo lượng đất trôi hàng năm; chất lượng đất giảm; tầng canh tác mỏng dần dẫn đến mất khả năng sản xuất và có một số diện tích bỏ hoang trở nên hoang mạc hóa.

Ngoài ra, phá rừng đã góp phần làm gia tăng tốc độ tác hại của biến đổi khí hậu, hiện tượng thời tiết cực đoan xảy ra với tần suất dày hơn (nắng hạn, mưa, lũ…) cũng góp phần làm gia tăng tốc độ suy thoái đất đai nông nghiệp ở Tây Nguyên.

Tất cả những thông tin trên đang cảnh báo rằng thoái hóa đất Tây Nguyên đã và đang xảy ra ngày càng rộng về quy mô và nghiêm trọng về mức độ.

Như vậy vấn đề cần quan tâm hiện nay là diện tích đất sản xuất nông nghiệp bị thoái hóa ngày càng gia tăng do tính chất đất đai bị thay đổi nghiêm trọng về lý, hóa tính và sinh học, rất khó để hồi phục trong thời gian ngắn hoặc không thể hồi phục được nếu như không xây dựng và triển khai quyết liệt một chiến lược tổng thể phục hồi đất thoái hóa ở Tây Nguyên.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu