Chuyển đến nội dung chính

Thủy điện nhỏ có phải là "thủ phạm" gây mất rừng, tăng lũ lớn?

 Có ý kiến cho rằng, thủy điện không gây ra lũ lụt vì nó xả đúng bằng lượng nước đổ về. TS Nguyễn Ngọc Chu lại cho rằng, thủy điện làm cho tốc độ dòng chảy lớn khiến sức tàn phá của nước lũ lớn hơn.

Mới đây, tại cuộc tọa đàm "Thủy điện nhỏ và vấn đề lũ lụt" do Hội Truyền thông số tổ chức tại Hà Nội, chuyên gia thủy điện Nguyễn Tài Sơn nêu quan điểm, thủy điện nhỏ không làm gia tăng lũ lụt mà còn góp phần cắt lũ cho hạ du. Tuy nhiên, TS Nguyễn Ngọc Chu lại phản bác ý kiến này.

Thủy điện nhỏ tiềm ẩn nguy cơ phá rừng tự nhiên

TS Nguyễn Ngọc Chu cho rằng, các thủy điện nhỏ hầu như không có khả năng điều tiết lũ mà còn làm cho lũ trầm trọng hơn.

"Mọi người cứ hình dung trên một dòng sông, nếu như không có đập thủy điện thì nước thượng nguồn cứ đều đều đổ về hạ du. Bây giờ chúng ta chặn dòng sông lại, tạo một hồ thủy điện lớn ở đây có độ cao lên, sau đó mình mới xả nước ra thì tổng lượng nước cuối cùng đổ xuống hạ du không thay đổi, nhưng thời gian xả và tốc độ xả rất nhanh khiến sức tàn phá của nước lũ lớn hơn", TS Nguyễn Ngọc Chu phân tích.

Ông Chu còn đưa ra cảnh báo, đối với các dự án thủy điện nhỏ tiềm ẩn nguy cơ về khai thác rừng tự nhiên.

Thủy điện nhỏ có phải là thủ phạm gây mất rừng, tăng lũ lớn? - 1

Nhấn để phóng to ảnh

TS Nguyễn Ngọc Chu cho rằng, các dự án thủy điện nhỏ tiềm ẩn nguy cơ phá rừng tự nhiên.

"Các dự án thủy điện nhỏ đôi khi họ tranh thủ để lấy gỗ, họ cắt thêm gỗ ở phía trên. Cho nên khi họ làm một thủy điện thì họ đã nghĩ đến là có thể lấy được gỗ, để làm được điều này người ta thường khai diện tích rừng bị phá phục vụ dự án ít đi", ông Chu nói.

Theo ông Chu, muốn hạn chế lũ lụt việc đầu tiên là phải trồng rừng, phục hồi rừng tự nhiên cho muôn đời con cháu. Muốn phục hồi rừng tự nhiên thì phải chống lại người phá rừng tự nhiên, trong đó có một phần của thủy điện nhỏ. 

"Rừng tự nhiên là những cây cao to ngàn năm tuổi, tán rộng hạn chế được nước mưa xối xuống, giúp nước rơi xuống đất từ từ, đó là thời điểm cho nước ngấm xuống thành mạch nước ngầm. Rừng tự nhiên có nhiều lớp cây, rễ cây ăn sâu xuống lòng đất và làm cho bề mặt đất rất chắc, khó bị trôi khi có mưa, nên hạn chế được lũ quét và sạt lở. Còn rừng trồng như cao su, keo,... không giữ được nước như rừng tự nhiên", TS Chu nói thêm. 

TS Nguyễn Ngọc Chu đưa ra quan điểm không nên phát triển ồ ạt thủy điện nhỏ, bởi chúng có nguy cơ tiềm ẩn tác động xấu đến môi trường, mà cần phát triển hệ thống năng lượng khác thay thế như điện gió, điện mặt trời.

"Không thể nói mất rừng do làm thủy điện"

Trước ý kiến cho rằng, các dự án thủy điện gây mất diện tích tích rừng lớn, chuyên gia thủy điện Nguyễn Tài Sơn đưa ra phân tích: Năm 1945 độ che phủ rừng của Việt Nam là 43,8%; năm bị mất nhiều rừng nhất là năm 1995, độ che phủ rừng chỉ còn 28%; đến 2019 độ phủ rừng là hơn 41%.

Ông Sơn thừa nhận, độ che phủ nói trên có rừng tự nhiên và rừng trồng, chất lượng rừng trồng không thể so sánh với rừng tự nhiên.

"Năm 1995, chúng ta chưa biết làm thủy điện, do đó, không thể nói mất rừng do làm thủy điện. Năm chúng ta phát triển mạnh mẽ nhất thủy điện là sau năm 2000 và đến trước năm 2012 cơ bản các hồ thủy điện lớn đã xây dựng xong, như: Sơn La, Hòa Bình… và không còn chỗ nào để xây dựng nữa. Đến năm 2012, độ che phủ rừng của chúng ta lên 40,7%", ông Sơn phân tích.

Thủy điện nhỏ có phải là thủ phạm gây mất rừng, tăng lũ lớn? - 2

Nhấn để phóng to ảnh

Chuyên gia thủy điện Nguyễn Tài Sơn cho rằng, thủy điện đóng góp chính vào việc phục hồi rừng tự nhiên.

Theo ông Sơn, khi có dự án thủy điện, về mặt khoa học thì độ ẩm khu vực đó tăng lên là điều kiện thuận lợi cho rừng phát triển. Bên cạnh đó, một yếu tố quan trọng giúp rừng tự nhiên phục hồi nhanh chóng đó là: Dự án thủy điện lấy đi bao nhiêu rừng thì phải trồng lại bằng diện tích đó; hàng năm các dự án thủy điện đều phải bỏ ra một khoản kinh phí nhất định đóng góp cho chi phí dịch vụ môi trường rừng. Từ khoản kinh phí này, người dân khu vực có tiền để họ chăm sóc rừng, chỗ nào có rừng tự nhiên sẽ giữ được, cho nên rừng tự nhiên mới phục hồi được.

"Thủy điện đóng góp chính cho phục hồi rừng tự nhiên, năm 2019 là hơn 1.800 tỷ đồng. Đây là nguồn kinh phí lớn giúp người dân khu vực có sinh kế, bởi khi người dân họ đói, buộc họ phải chặt cái cây, vào rừng bắt con thú để phục vụ cho cuộc sống hàng ngày của họ", ông Sơn nói.

Theo ông Sơn, đợt mưa lũ vừa qua ở miền Trung, nước đổ về thủy điện Quảng Trị là 1.400 m3/s, hồ Quảng Trị cắt được 296 m3 (21%). Thủy điện Hương Điền (Thừa Thiên Huế) cắt được 2.052 m3/s trên lưu lượng đổ về 4.552 m3/s, đạt 45%. Thủy điện Đắk Mi 4 cắt được 2.353 m3/s trên lưu lượng đổ về 3.149 m3/s.

"Tại sao nói hồ thủy điện cắt được lũ mà hạ du vẫn khốn đốn thế? Chính là vì lượng mưa quá lớn, nước đổ về hồ nhiều nên hồ thủy điện vẫn phải xả nhiều nên chúng ta phải chịu thiệt hại như vậy", ông Sơn phân tích.

Vị chuyên gia này cho biết thêm, thủy điện không bao giờ làm gia tăng lũ, vì trên một dòng sông có 1 trận lũ do thiên nhiên gây ra, thủy điện cắt lũ được 1 lượng nhất định còn vẫn phải trả lại dòng sông. Hồ thủy điện chỉ xả đúng lưu lượng nước đổ về.

Đồng quan điểm với ông Sơn, PGS.TS Vũ Thanh Ca, Khoa Môi trường, Đại học Tài Nguyên và Môi trường cho biết: Làm thủy điện là chặn 1 đoạn sông lại cho nước dâng lên, sau đó cho nước chảy ra để phát điện. Như vậy, trong lòng hồ có một phần là diện tích sông, phần còn lại là diện tích rừng bị phá. Phá rừng trong lòng hồ để làm thủy điện với diện tích nhỏ hơn diện tích của mặt nước.

Thủy điện nhỏ có phải là thủ phạm gây mất rừng, tăng lũ lớn? - 3

Nhấn để phóng to ảnh

PGS.TS Vũ Thanh Ca.

"Tôi có nghe một số dự án thủy điện lợi dụng để phá rừng lấy gỗ, nhưng chủ yếu người ta phá trong diện tích lòng hồ, vì gỗ trong lòng hồ rất có giá trị. Còn phá rừng ở bên trên không trong quy hoạch thì đó là vấn đề của kiểm lâm", ông Ca cho biết.

So sánh khả năng trữ nước cắt lũ, ông Ca cho rằng, phần nước do thủy điện lưu giữ trong lòng hồ lớn hơn rất nhiều lượng nước có thể chứa trong phần rừng bị phá. 

Nguyễn Dương

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu