Chuyển đến nội dung chính

Sạt lở đất – Thiên tai và nhân tai: Mất rừng tự nhiên và cái giá phải trả (Bài 3)

 

Rừng tự nhiên (gồm rừng nguyên sinh và rừng thứ sinh được phục hồi tự nhiên) là một trong những yếu tố tạo nên độ kháng trượt của các sườn đồi núi. Nhưng để phát triển kinh tế, diện tích rừng tự nhiên hiện đã bị thu hẹp, thay thế bằng rừng sản xuất hoặc bằng những hồ chứa của các công trình thủy điện,…

Đưa người bị thương trong vụ sạt lở đất ở thôn 1, xã Trà Leng, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam đi cấp cứu (Ảnh: Tổng cục Phòng chống thiên tai cung cấp)
Đưa người bị thương trong vụ sạt lở đất ở thôn 1, xã Trà Leng, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam đi cấp cứu (Ảnh: Tổng cục Phòng chống thiên tai cung cấp)

“Thay lâu đài bằng căn nhà lá”

Trong hai kỳ báo trước, Báo Dân tộc và Phát triển đã phản ánh, các hình thái thiên tai cực đoan (lũ chồng lũ, động đất,…) đã làm gia tăng sự cố sạt lở đất ở khu vực miền Trung. Nhưng cùng với thiên tai thì việc tập trung phát triển kinh tế cũng đã kích thích các yếu tố gây trượt, đặc biệt là tình trạng phá rừng tự nhiên để làm thủy điện, phát triển rừng sản xuất, xây dựng công trình hạ tầng,…

Thực trạng diện tích rừng tự nhiên hiện nay của nước ta đã được Báo Dân tộc và Phát triển phân tích trong bài viết: “Diện tích rừng trồng tăng, rừng tự nhiên giảm: Thay lâu đài bằng căn nhà lá”, ra ngày 28/10/2020. Bài viết đã nêu những số liệu trong Báo cáo của Chính phủ gửi đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ Mười, Quốc hội khóa XIV (diễn ra từ ngày 20/10 - 17/11) về tình hình thực hiện Kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011 – 2020.

Theo báo cáo này, trong 10 năm (2011 – 2020), cả nước trồng được khoảng 2,15 triệu ha rừng sản xuất để tạo nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến gỗ, góp phần quan trọng nâng giá trị xuất khẩu lâm sản tăng từ 4,2 tỷ USD vào năm 2011, ước đạt 12,5 tỷ USD vào cuối năm 2020; đưa Việt Nam đứng thứ 6 thế giới, đứng thứ 2 châu Á, thứ nhất Đông Nam Á về giá trị xuất khẩu lâm sản.

Tháng 4/2019, rừng tự nhiên tại khoảnh 6,7 - Tiểu khu 790 thuộc xã Trà Leng huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nạm bị đốn hạ (địa phương xảy ra vụ sạt lở đất vùi lấp 53 người ngày 28/10/2020). (Ảnh: IT)
Tháng 4/2019, rừng tự nhiên tại khoảnh 6,7 - Tiểu khu 790 thuộc xã Trà Leng huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nạm bị đốn hạ (địa phương xảy ra vụ sạt lở đất vùi lấp 53 người ngày 28/10/2020). (Ảnh: IT)

Nhưng đổi lại, diện tích rừng tự nhiên ở nhiều vùng lại giảm mạnh. Như Tây Nguyên, năm 2019, diện tích rừng trồng ở khu vực này tăng 18.387ha so với năm 2018, nhưng diện tích rừng tự nhiên giảm 15.753ha.

Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai, đến sáng 31/10, chỉ tính bão số 9 và hoàn lưu sau bão đã làm chết 27 người, bị thương 67 người, 50 người còn mất tích. Dự báo, những ngày tới khu vực miền Trung có mưa to đến rất to, với lượng mưa phổ biến 40 - 250mm, có nơi trên 300mm; đến ngày 1/11, lũ trên các sông từ Quảng Bình đến Phú Yên có khả năng lên lại. Tỉnh Nghệ An đã sơ tán 2.916 hộ dân ra khỏi khu vực bị ngập lụt và nguy cơ sạt lở đất; tỉnh Hà Tĩnh cũng đã sơ tán 1.199 hộ.

Bài báo cũng dẫn lời của Giáo sư Nguyễn Ngọc Lung, Viện trưởng Viện Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) rằng, rừng tự nhiên là “lá chắn” để giữ nước, giữ đất, giữ môi trường vì có tán cây, các lớp cây khác nhau, có thảm mục, hệ rễ sâu (chiều cao cây như nào rễ sâu như thế). Còn rừng trồng chỉ có tác dụng bằng 1/5 rừng tự nhiên.

Cũng là rừng, nhưng vì sao rừng sản xuất chỉ có tác dụng bằng 1/5 của rừng tự nhiên trong việc giữ nước, giữ đất, giữ môi trường? Chia sẻ với báo giới, ông Trần Tân Văn, Viện trưởng Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho rằng, ở sườn dốc, bộ rễ làm cho sườn dốc khỏe hơn, ổn định hơn, từ đó gia cố yếu tố kháng trượt. Tuy nhiên, hệ thống thân, lá của rừng lại làm cho sườn dốc gánh sức nặng nhiều hơn, làm gia tăng yếu tố gây trượt.

Với những sườn dốc có rừng tự nhiên, yếu tố kháng trượt được gia cố bởi thảm phủ thực vật nguyên sinh nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều chủng loại, khi đó tác dụng thẩm thấu tốt hơn. Còn rừng trồng, rừng sản xuất phía dưới không còn thảm thực vật nào khác, tác dụng thẩm thấu không còn. Mưa xuống, trong lòng đất là túi nước, và còn gánh thêm sức nặng của thân lá, thì rừng sản xuất vô tình trở thành gánh nặng cho sườn dốc. Đây là nguyên nhân dẫn tới thực trạng, nhiều quả đồi có rừng và nhiều quả đồi không có rừng cũng bị sạt lở.

Cần đánh giá lại toàn bộ hiện trạng rừng

Những số liệu về thực trạng rừng tự nhiên được đưa ra tại kỳ họp thứ Mười, Quốc hội khóa XIV đúng thời điểm khu vực miền Trung đang oằn mình trong lũ lụt, sạt lở đất, gây thiệt hại nặng nề. Tính đến ngày 31/10, khi mà nhiều nạn nhân của một số điểm sạt lở đất vẫn chưa được tìm thấy thì mưa trên diện rộng đang liên tục ập xuống, nguy cơ tiếp tục sạt lở ở nhiều vị trí ở khu vực miền Trung là rất cao.

Hiện trường vụ sạt lở đất ở thôn 1, xã Trà Leng, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam, nơi vẫn còn nhiều người mất tích (Ảnh: Tổng cục Phòng chống thiên tai cung cấp)
Hiện trường vụ sạt lở đất ở thôn 1, xã Trà Leng, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam, nơi vẫn còn nhiều người mất tích (Ảnh: Tổng cục Phòng chống thiên tai cung cấp)

Tại cuộc họp báo Chính phủ chiều ngày 30/10, ông Lê Công Thành, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, cho rằng, miền Trung là khu vực đồi núi cao, địa chất có nhiều đất đá cổ nứt nẻ, có nhiều đất sét, hết sức bất lợi. Vì thế, mưa lớn và mưa lâu ngày, lớp phong hóa này trở nên nhão và có lực trượt kéo xuống phía dưới, gây ra sạt lở đất.

“Ngoài ra do hoạt động dân sinh, ta phải mở đường san phẳng để làm khu nhà ở, trường học, nhà máy thủy điện… là những hoạt động làm mất ổn định sườn dốc, là nguyên nhân kích hoạt để tai họa có thể xảy ra”, ông Thành cho biết.

Tại cuộc họp báo của Chính phủ chiều ngày 30/10, vấn đề được báo chí đặc biệt quan tâm là việc quy hoạch, phát triển thủy điện; nhất là thực trạng các dự án thủy điện nhỏ trong thời gian qua là một nguyên nhân dân đến diện tích rừng bị giảm. Theo tính toán, bình quân các nhà máy thủy điện nhỏ, cứ 1MW thì "tiêu tốn" từ 1 đến 10 ha rừng đầu nguồn.

Sạt lở đất – Thiên tai và nhân tai: Mất rừng tự nhiên và cái giá phải trả (Bài 3) 3
Để xây dựng công trình thủy điện, nhiều diện tích rừng đầu nguồn bị “cạo trọc”. (Ảnh minh họa).

Ví dụ, dự án thủy điện Rào Trăng 3 (huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế) công suất 11 MW chiếm 11 ha; dự án Rào Trăng 4 công suất 14 MW tốn 168 ha rừng vùng Khu bảo tồn thiên nhiên huyện Phong Điền. Tính chung cả tỉnh Thừa Thiên – Huế có 11 thủy điện nhỏ, tổng công suất là 105MW. Vị chi, chỉ ở tỉnh này đã có trên dưới 1 nghìn ha rừng đầu nguồn phải “nhường” cho 11 dự án thủy điện “cóc”.

Theo các chuyên gia lâm nghiệp, yêu cầu cấp bách hiện này là phải đánh giá đúng thực trạng, nguyên nhân suy giảm rừng tự nhiên, từ đó xây dựng những giải pháp hữu hiệu để bảo vệ “lá chắn” giữ nước, giữ đất, giữ môi trường này. Bởi cái giá phải trả vì mất rừng tự nhiên đã và đang hiện hữu.

Dải đất miền Trung vốn không xa lạ gì với mưa bão, lũ lụt. Nhưng trong những năm gần đây, sức tàn phá của bão lũ ngày càng khốc liệt hơn; số người thiệt mạng trên đất liền phần lớn là do lũ quét, sạt lở đất do diện tích rừng tự nhiên ngày càng giảm. Mặc dù công tác dự báo, cảnh báo đã được quyết liệt triệt khai, nhưng người dân vẫn không thể tránh được thảm họa. Báo Dân tộc và Phát triển sẽ phản ánh nội dung này trong số báo tiếp theo.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu