Chuyển đến nội dung chính

Chuyển đất rừng phòng hộ làm hồ chứa: Cân nhắc kỹ!

 

(Khoa học) - Theo chuyên gia,  lấy rừng nghèo, rừng giàu hay rừng trung bình làm hồ chứa nước cũng như nhau vì chức năng điều tiết nước không khác nhau là mấy.

Rừng nghèo chỉ nghèo về gỗ

 Vấn đề chuyển mục đích sử dụng rừng để thực hiện dự án hồ chứa nước Sông Than (Ninh Thuận) và dự án hồ chứa nước Bản Mồng (Nghệ An) đang được Quốc hội bàn thảo, thu hút sự quan tâm của dư luận và các nhà khoa học. Trong đó, dự án hồ Sông Than phải chuyển 100,63 ha rừng phòng hộ đầu nguồn, dự án Hồ Bản Mồng phải chuyển 312,95 ha.

Trao đổi với Đất Việt, một số chuyên gia đều đề nghị Quốc hội cân nhắc rất kỹ trước khi cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng để thực hiện theo dự án nêu trên.

GS.TSKH Đặng Huy Huỳnh, nguyên Viện trưởng Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật (Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam) cho rằng, nhu cầu làm hồ chứa nước ở hai địa phương nêu trên, đặc biệt là Ninh Thuận, rất cấp thiết vì đây là vùng khô hạn. Thế nhưng, không nên vì thế mà hy sinh hàng trăm hecta rừng phòng hộ.

Bên cạnh đó, một trong những lý do được cơ quan chức năng đưa ra khi làm dự án là diện tích rừng bắt buộc phải chuyển đổi đều là rừng nghèo, nghèo kiệt, theo GS Huỳnh, là không thuyết phục.

"Rừng nghèo, nghèo kiệt tức là không có các cây gỗ lớn để khai thác, còn thảm thực vật, các cây bụi... vẫn có giá tị nhất định về sinh thái và đảm bảo chức năng của nó: chống sạt lở và chính nó là chỗ để giữ nước, tăng độ ẩm.

Trong tình hình biến đổi khí hậu hiện nay, yêu cầu bảo vệ rừng càng trở nên cấp thiết. Thậm chí, rừng nghèo kiệt vẫn nên để nó tự phục hồi và một số năm nữa có thể trở thành rừng có giá trị kinh tế kinh tế. Trong tự nhiên, nếu mưa thuận gió hòa thì rừng có thể tự phục hồi, không cần sự can thiệp của con người, các cây cỏ vẫn có giá trị kinh tế, vẫn đảm bảo cuộc sống cho người dân, đồng thời góp phần bảo vệ nguồn nước. Đừng chỉ nghĩ trước mắt, cho rằng đó là rừng không có giá trị, nghèo kiệt mà đánh đổi cũng không sao", nguyên Viện trưởng Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật nêu rõ.

Chuyen dat rung phong ho lam ho chua: Can nhac ky!
Công trình trọng điểm Hồ chứa nước Bản Mồng. Ảnh: NNVN

Cùng quan điểm, GS.TSKH Nguyễn Ngọc Lung (Viện Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng) khẳng định, lấy rừng giàu, rừng trung bình hay rừng nghèo, nghèo kiệt làm hồ chứa nước cũng như nhau. Ở đây chỉ quan tâm đế khả năng điều tiết nước, mà khả năng này giữa các loại rừng trên không khác nhau nhiều lắm, có chăng rừng giàu thì mật độ cây cao hơn, điều tiết nước tốt hơn rừng nghèo.

"Thà giữ 1ha rừng nghèo còn hơn trồng 1ha rừng có giá trị kinh tế cao", GS Nguyễn Ngọc Lung nhấn mạnh.

Theo vị chuyên gia, người làm công tác phòng hộ không cần gỗ trong rừng, họ chỉ cần biết rừng giúp điều tiết nước khi mưa xuống, nước thấm sâu xuống đất thành nước ngầm, không chảy tràn trên bề mặt. Còn người kinh doanh, buôn bán gỗ mới nói rừng giàu, rừng trung bình, rừng nghèo.

"Nói rừng giàu, rừng trung bình hay rừng nghèo chỉ là về mặt gỗ. Rừng giàu có nhiều gỗ quý, trên 200m3 gỗ/ha, còn rừng trung bình có khoảng 150m3 gỗ/ha; dưới 100m3 gỗ/ha là rừng nghèo và phải nuôi dưỡng nó thì mới lên được rừng giàu, rừng trung bình.

Thế nhưng, rừng nghèo vẫn là rừng tự nhiên, vẫn có tác dụng không kém rừng tự nhiên có cây gỗ tốt. Cụ thể, nó vẫn có hệ thống che phủ trên mặt đất, tầng lớp lá nọ lá kia, tầng thảm mục, hệ rễ vẫn đan chằng chịt vào nhau để mưa xuống là thấm ngay xuống thành nước ngầm.

Rừng nghèo, rừng kiệt tác dụng vẫn tốt hơn rừng trồng rất nhiều. Tôi nhấn mạnh, loại rừng này chỉ nghèo kiệt về mặt gỗ, còn tác dụng về phòng hộ, điều tiết nước vẫn tốt như thường, nhưng đáng tiếc là lâu nay ít ai giải thích điều này", Viện trưởng Viện Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng chỉ rõ.

Đã có nhiều bài học

Đề nghị các đại biểu Quốc hội cân nhắc kỹ càng, thận trọng trước khi quyết định chuyển đất rừng phòng hộ làm hai hồ chứa nước, GS.TSKH Đặng Huy Huỳnh nhắc lại bài học lũ lụt, sạt lở ở miền Trung trong thời gian qua, trong đó có một phần nguyên nhân là rừng bị phá để làm thủy điện.

"Địa hình Ninh Thuận còn tương đối bằng phẳng, còn Nghệ An có địa hình, địa chất phức tạp, núi non hiểm trở nhiều nên càng phải thận trọng", GS Huỳnh nói và cho rằng, cơ quan chức năng có thể tìm một phương án khác, có thể không thuận lợi bằng phương án cũ, và tốn kém hơn nhưng vẫn chuyển được nước từ nơi khác về nơi đang quy hoạch làm hồ chứa.

"Phải thay đổi quan điểm, đừng nghĩ rằng đó là phương án tốt nhất, phục vụ được người dân tại chỗ mà quên mất nó có thể gây hại cái khác. Quan trong là phải giữ được rừng, mà giữ được rừng tức là bảo vệ được người dân ở vùng đó", GS Huỳnh nhấn mạnh.

Về việc thực hiện dự án hồ chứa nước sông Than và dự án hồ chứa nước Bản Mồng, chiều 5/11, trong phiên thảo luận toàn thể hội trường về KT-XH, NSNN tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường đã báo cáo làm rõ một số vấn đề liên quan.

Về dự án của bản Mồng và sông Than, lý giải tại sao đến thời điểm này mới báo cáo Quốc hội thông qua chủ trương chuyển đổi mục đích rừng, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nêu rõ, dự án hồ chứa nước Bản Mồng phê duyệt từ năm 2009, trong đó có 2 hợp phần là hợp phần xây dựng toàn bộ dự án hồ là do Bộ NN-PTNT quản lý thực hiện. Hợp phần bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng do Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An chủ trì thẩm định, phê duyệt thực hiện cả về phía diện tích của tỉnh Thanh Hóa và diện tích của tỉnh Nghệ An.

Tại thời điểm năm 2009, theo Nghị quyết số 66 thì triển khai dự án Bản Mồng, năm 2011 thì dự án phải tạm dừng vì lý do không có kinh phí theo tình hình chung. Năm 2017, sau khi dự án được bố trí tiếp tục vốn để chuẩn bị triển khai thì Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã yêu cầu tỉnh Nghệ An, tỉnh Thanh Hóa tổng rà soát lại diện tích đất sử dụng. Đặc biệt là đất rừng thì diện tích rừng phòng hộ nâng lên là 312,95 hecta. Chính vì thế, dự án phát sinh tiêu chí quan trọng quốc gia theo quy định của Luật Đầu tư công.

Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường cho biết lý do của rừng phòng hộ tăng từ 94 hecta lên 312,95 hecta là do:

Thứ nhất là tại thời điểm phê duyệt dự án năm 2009, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An cập nhật thiếu số liệu rừng phòng hộ của tỉnh Thanh Hóa. Hai, theo quy định của pháp luật, sau 10 năm có nhiều thay đổi. Ví dụ, tiêu chí để tính rừng là diện tích rừng liền khoảnh trước đây của chúng ta theo luật cũ là 0,5 hecta, theo luật mới bây giờ là 0,3 hecta. Vì vậy, tự nhiên diện tích rừng này phải tăng lên

Thứ hai, về thẩm quyền và thủ tục pháp lý. Theo quy định tại khoản 7 Điều 1 Nghị định số 02 đối với dự án đang trong quá trình thực hiện có sự thay đổi mà các nội dung thay đổi dẫn đến dự án thuộc tiêu chí dự án quan trọng quốc gia thì Thủ tướng Chính phủ xem xét và chỉ đạo, báo cáo Quốc hội tại kỳ họp cuối năm về tình hình triển khai thực hiện dự án. Tuy nhiên, trên thực tiễn thì đến tháng 8/2020 thì 2 tỉnh Ninh Thuận và Nghệ An mới hoàn thành bộ hồ sơ này trình lên. Chính vì thế, cho đến thời điểm này Chính phủ mới báo cáo được Quốc hội.

Ngày 15/7/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định 83 để thực hiện Luật Lâm nghiệp, trong đó đã đề cập đối với dự án đã được chấp thuận chủ trương đầu tư nhưng trong nội dung quy định chưa xác định diện tích rừng được chuyển mục đích sử dụng rừng sang làm mục đích khác. Trường hợp thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng của Quốc hội thì giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện trình tự, thủ tục tổng hợp hồ sơ dự án, báo cáo Chính phủ xem xét trình với Quốc hội quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác. Chính vì vậy, Chính phủ trình với Quốc hội quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác của dự án sông Than, Ninh Thuận và dự án Bản Mồng, Nghệ An là phù hợp với quy định hiện hành.

Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nêu rõ, sau khi Quốc hội đồng ý về mặt chủ trương chuyển đổi mục đích sử dụng rừng thì Bộ NN-PTNT sẽ trình Thủ tướng Chính phủ ra quyết định điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án Bản Mồng. Đối với dự án sông Than, UBND tỉnh Ninh Thuận trình với Hội đồng nhân dân tỉnh điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án.

Về diện tích rừng, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho biết, nhiệm vụ của các Dự án là tạo hồ chứa nước 225 triệu m3, cấp nước cho 18.000 hecta đất nông nghiệp, cấp tạo nguồn cho hạ lưu của lưu vực sông cả với tốc độ là 22m3/s để cấp cho hệ thống Bắc và Nam thủy lợi của Nghệ An. Hợp phần thủy điện chỉ kết hợp tận dụng lưu lượng xả về hạ du để phát điện theo lịch cấp nước của bên thủy lợi. Đây là trường hợp tận dụng, không liên quan đến tăng dung tích của hồ chứa, vì vậy không tăng diện tích rừng.

Về dự án tái định cư của hợp phần về phía Thanh Hóa, Bộ trưởng Cường cũng cho hay, ở đây có 118 hộ là đồng bào dân tộc. Vừa qua, đoàn giám sát của Quốc hội, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội đã đi kiểm tra nguyên tắc của xây dựng dự án tái định cư để bảo đảm cho đồng bào có điều kiện tốt hơn chỗ cũ kể cả về nơi ở, đất sản xuất, sinh kế. Đồng thời Bộ sẽ yêu cầu tỉnh Nghệ An tập hợp đầy đủ những nội dung này vào các dự án hợp phần tái định cư của phía Thanh Hóa để thực hiện.

Thành Luân

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu