Chuyển đến nội dung chính

Chặn ngay việc lợi dụng thủy điện để triệt phá rừng

 Chặn ngay việc lợi dụng thủy điện để triệt phá rừng

(PL)- Các đại biểu Quốc hội chỉ rõ chủ đầu tư chặt phá, khai thác rừng, tài nguyên trước rồi mới làm thủy điện theo dự án hoặc bán dự án.

Ngày 4-11 là ngày thứ hai Quốc hội (QH) thảo luận về kinh tế - xã hội. Hậu quả của bão, lũ miền Trung vẫn nóng lên trong từng ý kiến các đại biểu (ĐB) QH. Trong đó, chiếm đại đa số là những ý kiến về mối quan hệ giữa thủy điện - phá rừng - sạt lở, lũ lụt…

Phá rừng kiếm lời trước rồi mới làm thủy điện

Gần cuối trưa 4-11, ĐB Trần Thị Dung (Điện Biên) phát biểu, nhắc lại chuỗi sự việc xảy ra với các thủy điện vừa và nhỏ vào mùa mưa 2018. Theo đó, Chính phủ chỉ đạo Bộ Công Thương và UBND một số tỉnh loại bỏ 474 dự án thủy điện và 213 điểm ở các tỉnh miền núi, trung du, Tây Nguyên và một số tỉnh ven biển có khả năng tác động xấu tới môi trường và xã hội, không mang lại lợi ích về mặt kiểm soát lũ lụt, thủy lợi và sản xuất điện.

“Qua đó cho thấy việc phát triển ồ ạt các thủy điện vừa và nhỏ thể hiện cơ chế, chính sách phát triển thủy điện chưa có rào cản thích hợp để loại ra những dự án kém hiệu quả và tiềm ẩn rủi ro cao có thể dẫn tới một số hậu quả như phá vỡ sinh kế và mất rừng” - ĐB Dung nói.

Theo ĐB Dung, 25 thủy điện lớn ở Tây Nguyên đã lấy đi 68.000 ha rừng của 26.000 hộ dân hoặc hồ chứa, đập thủy điện đã gây ra động đất cường độ nhỏ. ĐB Dung còn cho rằng các thủy điện nhỏ và vừa ảnh hưởng đến nguồn nước hạ lưu và sự vận chuyển của trầm tích thay đổi dòng chảy…

Bà Dung cho hay: “Người ta xây dựng thủy điện với lý do điều tiết nước nhưng thật ra không phải như vậy. Họ kiếm lời từ cây rừng bị chặt phá rừng là chính, rồi sau đó mới gọi là khai thác năng lượng điện và nhiều nguồn tài nguyên khác. Khi mục đích chính của họ là khai phá thì sẽ tước mất lá chắn hữu hiệu của rừng là giữ nước và để điều tiết các dòng chảy”.

Nhằm làm rõ, mạnh hơn ý kiến của mình, ĐB Dung trích dẫn số liệu: Bình quân các nhà máy điện loại nhỏ, cứ 1 MW thì sẽ phải chặt bỏ từ 1 đến 10 ha rừng. “Ở dự án vào Rào Trăng 3, công suất 11 MW chiếm mất 110 ha rừng và dự án Rào Trăng 4 thì công suất 14 MW chiếm mất 168 ha rừng bảo tồn thiên nhiên của huyện Phong Điền, Thừa Thiên-Huế”.

Trước đó, ĐB Nguyễn Thị Xuân (Đắk Lắk) cũng kiến nghị đánh giá lại việc đầu tư các dự án thủy điện vừa và nhỏ tại các tỉnh Tây Nguyên, miền Trung và cả các tỉnh miền núi phía Bắc. “Trong thực tế, việc làm thủy điện vừa và nhỏ như vừa qua là lợi bất cập hại, sông, suối cạn kiệt nước khi thủy điện tích nước và ngập úng khi xả nước. Nước sinh hoạt, nước phục vụ sản xuất đều thiếu. Các hồ thủy điện chưa phát huy được vai trò thủy lợi, điều tiết nước cho hạ lưu, trong khi rừng, cây rừng và các loại tài nguyên khác bị các chủ đầu tư khai thác triệt để. Nhiều cử tri cho rằng thực chất của việc đầu tư thủy điện nhỏ là khai thác gỗ và tài nguyên một cách hợp pháp”.

Chặn ngay việc lợi dụng thủy điện để triệt phá rừng - ảnh 1
Đại biểu Trần Thị Dung (trái, Điện Biên) và đại biểu Nguyễn Thị Xuân (Đắk Lắk) phát biểu tại phiên thảo luận. Ảnh: VGP

ĐB Nguyễn Thị Xuân nói: “Thực tế cho thấy đã có nhiều chủ dự án thủy điện sau khi được cấp giấy phép xây dựng xong đã nhanh chóng bán lại dự án thủy điện cho các chủ đầu tư khác. Đây cũng là lúc họ đã khai thác cơ bản các nguồn tài nguyên khoáng sản nằm trong và ven khu vực có dự án”. Từ đó, ĐB Xuân đề nghị kiểm tra xem có bao nhiêu thủy điện vừa và nhỏ đã sang tên cho chủ đầu tư khác.

Sớm trồng lại rừng

ĐB Nguyễn Minh Sơn (Tiền Giang) nhắc lại chuyến đi thăm các tỉnh miền Trung của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc mới đây và tâm đắc với việc Thủ tướng đề nghị các bộ, ngành, địa phương phải tính toán lại vấn đề phát triển thủy điện an toàn, trồng rừng để phủ xanh đất trống, đồi trọc, góp phần giảm sạt lở đất.

“Đây là việc cần phải làm ngay nếu không muốn tiếp tục hứng chịu thiên tai khủng khiếp như vừa qua. Đề nghị Chính phủ cho kiểm tra, rà soát lại toàn bộ thủy điện đã, đang thi công có đúng quy định của pháp luật không cả về thẩm quyền phê duyệt, cả về đánh giá ĐTM, hiệu quả của thủy điện nhỏ và việc xử lý hậu quả sạt lở đất vừa qua như thế nào” - ĐB Sơn kiến nghị.

ĐB Phạm Thị Thu Trang (Quảng Ngãi), ĐB Trần Thị Dung đề cập đến nguy cơ sạt lở núi, bờ sông, bờ biển, lũ quét, lũ ống… một phần do diện tích rừng che phủ bị thu hẹp và đề nghị bố trí kinh phí hoặc có nghị quyết về di dời dân khỏi những nơi có nguy cơ ấy.

“Chỉ đạo thực hiện nghiêm túc việc đánh giá tác động môi trường, nhất là đối với các dự án liên quan đến việc thu hẹp, chuyển đổi đất rừng tự nhiên, đồng thời có giải pháp phù hợp, phải tính đến 30 năm, 50 năm để phục hồi và phát triển rừng tự nhiên” - ĐB Trang nói.

ĐB Đinh Thị Phương Lan (Quảng Ngãi) đề nghị phải quản lý, vận hành tốt hệ thống hồ, đập, kênh dẫn nước… ở các vùng khó khăn, vùng ngập lụt. Cụ thể, Chính phủ bố trí nguồn lực đầu tư công trung hạn kịp thời nâng cấp 1.200 hồ chứa, sửa chữa 200 hồ hư hỏng nghiêm trọng, có giải pháp phù hợp với 4.000 hồ do cấp huyện, xã đang quản lý.

ĐB Nguyễn Thị Xuân cho rằng an ninh nguồn nước phải gắn liền với phòng, chống thiên tai, lụt bão và vấn đề an ninh năng lượng. “Đó là vấn đề rừng nguyên sinh, rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn, an toàn hồ đập, vấn đề xây dựng thủy điện vừa và nhỏ. Tôi kiến nghị QH và Chính phủ tiếp tục cho thực hiện chương trình trồng rừng tương tự như chương trình trồng rừng 327 trước đây” - ĐB Xuân nói.

Lũ, sạt lở đất là do thời tiết dị thường

Trước đây, rất nhiều dự án thủy điện chiếm đất rừng tự nhiên và gây ra những ảnh hưởng đến rừng đầu nguồn. Thực hiện chỉ đạo của QH và các cấp có thẩm quyền, từ năm 2016, Bộ Công Thương đã phối hợp với các bộ, ngành đưa chỉ tiêu là tuyệt đối không bổ sung bất kỳ dự án thủy điện nào nếu sử dụng diện tích đất rừng tự nhiên.

Về câu chuyện thủy điện ảnh hưởng như thế nào đến ngập lụt, sạt lở đất và đặc biệt hôm nay được ĐB Trần Thị Dung đề cập, xin được báo cáo: Qua khảo sát thực tế ở các địa phương và đánh giá của các nhà chuyên môn, cơ quan chức năng thì trước mắt chúng ta phải khẳng định rằng những câu chuyện sạt lở đất gây ra những tổn hại rất nghiêm trọng về người và của tại Quảng Trị, Huế, Quảng Nam đều gắn chặt với yếu tố là tính dị thường, cực đoan của thời tiết.

Bộ trưởng Bộ Công Thương TRẦN TUẤN ANH

Thủy điện: Nguồn di sản có hại cho 40-50 năm sau

Tôi muốn nhấn mạnh đến yếu tố chúng ta đang bàn về cái lợi hại của hệ thống các thủy điện nhỏ.

Chúng ta mới bàn đến câu chuyện ngày hôm nay thôi nhưng giả dụ 40-50 năm nữa, khi đã hết khấu hao, khi đã không còn hiệu quả kinh tế thì tất cả công trình xây ở nơi rừng sâu núi thẳm này sẽ là một quả bom nổ chậm. Nguồn tài lực nào, nguồn nhân lực nào quản lý nó?

Ngay từ bây giờ, khi xây dựng, chúng ta phải thấy kết cục của nó thế nào. Chắc chắn đó sẽ là một “di sản” mà sau này thế hệ con cháu chúng ta phải lo.

Cũng như một số điện chúng ta gọi là “sạch” hiện nay, nếu hàng vạn mét vuông của điện mặt trời khi không được sử dụng nữa, trở thành rác sẽ là nguồn gây ô nhiễm như thế nào?

ĐB DƯƠNG TRUNG QUỐC (Đồng Nai) 

NHÓM PHÓNG VIÊN

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu