Chuyển đến nội dung chính

Bao nhiêu đất rừng mất vì thủy điện?

 Nhiều ý kiến cho rằng cần thống kê cụ thể, trong số diện tích đất rừng đã mất, bao nhiêu phần trăm do thủy điện, bao nhiêu phần trăm do hạ tầng giao thông và các nội dung khác, sẽ biết ngay đâu là tác nhân chính gây mất rừng…

Anh255.

Ảnh minh họa

10 năm làm thủy điện, đất rừng bị mất bằng 1 năm phá rừng

Trong Nghiên cứu triển vọng của ngành lâm nghiệp Việt Nam xuất bản năm 2009, ông Patrick Durst, Cán bộ lâm nghiệp cấp cao Văn phòng Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp quốc (FAO) Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đánh giá, Việt Nam từng là nước có tỷ lệ đất rừng và trữ lượng gỗ bình quân đầu người thấp nhất trên toàn cầu. 

Theo ông Patrick Durst, năm 1943, Việt Nam có 14,3 triệu ha rừng tự nhiên, chiếm 43% tổng diện tích đất quốc gia. Tuy nhiên, diện tích rừng đã giảm nhanh chóng và đến năm 1990 chỉ còn 9,18 triệu ha. Trong giai đoạn 1980-1990, Việt Nam mất trung bình 100.000 ha rừng/năm. Ngoài việc giảm diện tích rừng, chất lượng rừng cũng giảm.

Từ năm 1995, diện tích rừng đã tăng lên do cải tạo và các chương trình trồng rừng. Tuy nhiên, theo số liệu công bố năm 2006, rừng phân bố không đều trong cả nước. Rừng Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và Đông Bắc độ che phủ cao trên 40%, ở Đông Nam Bộ độ che phủ gần 20%. Ở Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long, phần lớn diện tích được sử dụng cho nông nghiệp và độ che phủ của rừng là 10%. 

Trong khi đó, theo ông Đỗ Đức Quân, Phó Cục trưởng Cục Điện lực và năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương), giai đoạn bắt đầu phát triển mạnh của thủy điện nhỏ (dưới 30MW) bắt đầu từ năm 2008-2009 kéo dài đến năm 2016. Đối chiếu với thời điểm này, căn cứ vào các quyết định về công bố hiện trạng rừng của Bộ NN&PTNT có thể thấy, tổng diện tích đất rừng có sự tăng lên, tuy nhiên diện tích rừng tự nhiên bị giảm. 

Cụ thể, Quyết định 1267/QĐ-BNN-KL năm 2009 cho thấy, năm 2008 diện tích có rừng 13.118.773 ha, trong đó rừng tự nhiên 10.348.591 ha; Quyết định 1819/QĐ-BNN-TCLN năm 2017 cho thấy, năm 2016, diện tích đất rừng có 14.377.682 ha, trong đó, rừng tự nhiên 10.242.141ha. Như vậy, giai đoạn 10 năm phát triển mạnh thủy điện nhỏ, rừng tự nhiên bị giảm 106.450 ha và diện tích giảm chỉ bằng 1 năm so với giai đoạn chưa phát triển mạnh về thủy điện.

“Thời điểm 1980-1990 chưa phát triển thủy điện nhỏ, vậy mất rừng đâu phải vì phát triển thủy điện” - ông Quân nói. Đồng quan điểm với ông Quân, PGS.TS Vũ Thanh Ca (Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội) cũng cho rằng, không có số liệu nào khẳng định, toàn bộ diện tích đất rừng mất là do thủy điện. 

Nhiều chuyên gia kinh tế, năng lượng cho rằng, nếu có cuộc khảo sát và thống kê diện tích rừng tự nhiên hàng năm bị mất do nạn phá rừng lấy đất canh tác, do xây dựng các công trình phục vụ mục đích kinh tế, dân sinh (bao gồm cả xây dựng thủy điện) thì sẽ thấy ngay tác nhân nào gây mất rừng tự nhiên là chính.

Sạt lở, lũ lụt do đâu?

PGS.TS Vũ Thanh Ca khẳng định “Thủy điện có phá rừng nhưng phá không đáng kể”. Tổng diện tích các loại đất làm thủy điện từ 1970 (thời điểm làm thủy điện Thác Bà), theo ông Quân là 285.000 ha. Tuy nhiên, không có con số thống kê cụ thể, trong số này thì diện tích đất rừng chiếm bao nhiêu.

“Nhưng chỉ làm một phép so sánh đã cho thấy, so với 100.000 ha đất rừng mất (do nhiều nguyên nhân) trong 10 năm phát triển mạnh về thủy điện nhỏ với 285.000 ha tất cả các loại đất, bao gồm cả đất ở, đất màu, đất trồng cây, sông hồ, ao suối… cho các hệ thống thủy điện lớn, nhỏ trong 50 năm qua thì diện tích đất rừng làm thủy điện chỉ chiếm rất ít” - ông Quân nói. Do đó, không thể khẳng định, do phá rừng làm thủy điện đã gây nên những trận lũ lụt vừa qua với miền Trung. 

Ông Nguyễn Tài Sơn, chuyên gia thủy điện cũng khẳng định, bản chất nguyên nhân chính gây ra lũ lụt, sạt lở không phải do thủy điện mà do quản lý không tốt, lơ là quản lý thì chuyện có hậu quả chỉ là vấn đề thời gian. Ông Nguyễn Huy Hoạch, thành viên Hội đồng khoa học Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cũng cho rằng, lỗi là do con người, không phải do xây dựng thủy điện.

Bởi khi đánh giá về các dự án thủy điện, các chuyên gia cũng như Bộ Công Thương đã tư vấn rất cẩn thận trong việc sử dụng đất hiệu quả nhất, đảm bảo ít ảnh hưởng nhất đến các loại đất rừng. Tuy nhiên trước khi giải phóng lòng hồ để tích nước, một số chủ đầu tư thủy điện đã lợi dụng sự giám sát lỏng lẻo của các cơ quan chuyên môn địa phương để trục lợi bằng cách khai thác rừng với diện tích lớn hơn diện tích được cấp phép.

Hơn nữa, trong các cuộc làm việc gần đây của Thủ tướng Chính phủ với các địa bàn chịu ảnh hưởng nặng nề của bão lũ, Thủ tướng cho biết, qua khảo sát những khu vực bị sạt lở đất thời gian qua vẫn còn 80-90% thảm thực vật bao phủ. Mặt khác, khu vực sạt lở tại Trà Leng (Quảng Nam) không có thuỷ điện nào, tại Hướng Hoá (Quảng Trị) nơi 23 chiến sỹ bị vùi lấp thì cũng cách khu vực núi 1,6 km, tại Rào Trăng 3 khu vực sạt lở cách núi từ 200-300m…

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cũng thông tin, qua đánh giá hiện nay, hầu hết vụ sạt lở ở các tỉnh miền Trung, từ Quảng Trị, Huế đến Quảng Nam, đều có yếu tố nội sinh hết sức rõ ràng. Ông khẳng định nguyên nhân nội sinh là lý do chính dẫn đến sạt lở thời gian qua, đặc biệt thể hiện qua việc bản đồ dự báo sạt lở tỉ lệ 1/50.000 cho thấy những vùng này là nơi trước đây từng xảy ra sạt lở.

Nhật Thu

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu