Chuyển đến nội dung chính

Bài 5: Giải pháp nào để sống chung với cả lũ và thủy điện nhỏ?

 

QĐND Online – Tuyến bài do Báo Quân đội nhân dân Điện tử thực hiện đúng vào dịp tình hình mưa lũ ở miền Trung đang diễn biến phức tạp, gây ra nhiều trận lũ lịch sử, các thủy điện đồng loạt xả lũ. Chúng tôi đã cố gắng tập hợp nhiều thông tin, luận cứ đa chiều cả ở trong nước và quốc tế nhằm mang lại cái nhìn khách quan cho bạn đọc.

 Bài 1: Lũ lụt có phải do thủy điện?

 Bài 2: Chuyển động từ một nghị quyết quan trọng của Quốc hội

 Bài 3: Hướng đi để khai thác nguồn thủy điện bền vững, an toàn

 Bài 4: Thế giới với thủy điện - Một phần không thể thiếu

Thông tin Báo Quân đội nhân dân Điện tử nêu ra cũng cùng quan điểm với Phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng khi ông phát biểu tại phiên họp thường kỳ tháng 10 của Chính phủ, sau chuyến công tác dài ngày chỉ đạo khắc phục hậu quả bão lũ ở miền Trung.

Đừng để Chính phủ làm nhiều, dư luận vẫn hiểu sai

Tại phiên họp thường kỳ tháng 10 về tình hình phát triển kinh tế-xã hội, sáng 30-10, Phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng đã đề nghị các cơ quan báo chí thông tin một cách khách quan, tránh thông tin sai lệnh về vấn đề nghi vấn lũ lụt là do thủy điện vì thời gian qua có những thông tin trên báo chí không khách quan.

“Lũ cao thì do mưa lớn kéo dài, nắng lắm mưa nhiều - đó là quy luật của trời đất. Rồi lũ lịch sử, tất cả đều có tần suất. Thế mà một số báo đưa thông tin không khách quan, như có bài báo viết “Các thủy điện ở Nghệ An đồng loạt xả lũ, nhà dân ngập nước. Mưa thì nước lên, không có thủy điện thì nước càng lên mạnh. Thủy điện cũng phải xả nước tràn để đảm bảo độ an toàn, nhưng không hề thấy nói về hồ thủy lợi, một số hồ thủy lợi còn hơn cả hồ thủy điện. Đổ lỗi cho Chính phủ, chính quyền là không khách quan. Khi mưa nếu không có đập thủy điện thì nước lên càng nhanh và càng nguy hiểm. Các nhà khoa học, các bộ ngành, các cán bộ công chức phải có ý kiến”, Phó thủ tướng nêu quan điểm và kiến nghị.

Bài 5: Giải pháp nào để sống chung với cả lũ và thủy điện nhỏ?

Phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng phát biểu tại phiên họp thường kỳ tháng 10-2020 của Chính phủ. Ảnh: Chinhphu.vn

Về vấn đề sạt lở đất, nhưng lại đổ lỗi cái chính là do phá rừng, Phó thủ tướng cho rằng: Mưa lâu ngày, đất chứa nhiều nước hay còn gọi là no nước làm cho tính kết dính rất kém. Khi có thêm tác động sẽ gây ra sạt lở đất rất mạnh. Đơn cử như ở Quảng Nam khi bão vào tác động mưa cục bộ thì sạt lở đất rất mạnh. Khu vực đó rừng nhiều lắm chứ không phải không có rừng, các đồng chí xem ảnh kìa”.

Về rừng ở Việt Nam, Phó thủ tướng cho biết, hiện nay, Việt Nam đứng thứ 50/193 quốc gia và phủ kín trên 40%, trong khi năm 1995 chỉ có 28%. Một số nơi phá rừng nhiều, chủ yếu ở Tây Nguyên vì bà con di cư vào nhiều, tìm nguồn phát triển kinh tế nên không kiểm soát được rừng, nhưng có những vùng như Trung bộ, Đông bắc... bây giờ rừng phủ kín.

Do đó, một số mạng xã hội, thông tin trên báo chí đã đổ lỗi cho chặt rừng dẫn đến sạt lở đất, đổ lỗi cho thủy điện làm sạt lở đất là không khách quan. Lấy ngay dẫn chứng về sự việc ở thủy điện Rào Trăng 3 (Thừa Thiên-Huế), Phó thủ tướng cho biết: “Ở Thủy điện Rào Trăng 3, sạt lở đất không phải ở phía thủy điện. Thủy điện ở đó đang xây dựng chứ không phải thủy điện làm rồi. Còn rất nhiều khu vực khác sạt lở đất không có thủy điện”.

Phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng đề nghị các nhà khoa học, các cơ quan có ý kiến, nhất là Bộ Tài nguyên và Môi trường; các chuyên gia của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần có ý kiến, không để tình trạng Chính phủ làm nhiều việc, nhưng vẫn có những thông tin sai, không đúng.

Nhiều chuyên gia: Không “đổ lỗi tất cả cho thủy điện nhỏ”

Cùng thời điểm, Phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng bày tỏ sự bức xúc trước những thông tin sai lệch về thủy điện và lũ lụt, tại tọa đàm “Thủy điện nhỏ và vấn đề lũ lụt” do Hội Truyền thông số tổ chức tại Hà Nội, đã có nhiều ý kiến chuyên gia, nhà quản lý đưa ra những phân tích sâu hơn về vấn đề này.

 PGS, TS Vũ Thanh Ca, Giảng viên cao cấp, Khoa Môi trường, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường cho biết: Năm 2010, nhóm công tác châu Âu về Đập và lũ lụt đã xuất bản báo cáo đánh giá khả năng giảm nhẹ lũ lụt của đập và trên cơ sở tính toán về mức độ giảm nhẹ lũ lụt của tất cả các quốc gia châu Âu. Thực tế đã chứng minh các đập nước, bao gồm cả thủy điện, thủy lợi và cấp nước đã giúp giảm nhẹ lũ lụt ở tất cả các quốc gia châu Âu. Tại châu Âu, quy mô và số lượng các đập thủy điện lớn hơn rất nhiều so với Việt Nam. Các con số thống kê và theo dõi tại châu Âu cho thấy, không ghi nhận bất kỳ trường hợp nào các đập thủy điện làm tăng nguy cơ xảy ra lũ lụt.

Bài 5: Giải pháp nào để sống chung với cả lũ và thủy điện nhỏ?

Các chuyên gia tham dự tọa đàm “Thủy điện nhỏ và vấn đề lũ lụt” do Hội Truyền thông số tổ chức tại Hà Nội. Ảnh: Vietnamplus.

Theo đánh giá của châu Âu, các hồ nhỏ không có khả năng chống lũ, nhưng lượng nước giữ được trong hồ luôn lớn hơn gấp nhiều lần so với khả năng giữ nước của các khu rừng tồn tại trong vùng lòng hồ.

Về vấn đề phá rừng gây lũ lụt, PGS, TS Vũ Thanh Ca phân tích thêm: Hiệp hội của các Tổ chức nghiên cứu Rừng quốc tế cho biết, rừng có khả năng ngăn và giảm nhẹ các trận lũ nhỏ và cục bộ. Tuy nhiên, không có khả năng ngăn các loại lũ cực đoan hoặc diễn ra trên diện rộng như vừa diễn ra ở miền Trung nước ta.

Ông Nguyễn Tài Sơn, Chuyên gia trong lĩnh vực tư vấn, thiết kế xây dựng các công trình điện, người có kinh nghiệm 40 năm trong ngành xây dựng thủy điện, từng tham gia tư vấn thiết kế nhiều dự án thủy điện lớn như Tuyên Quang, Lai Châu phân tích, tại miền Trung, các hồ thủy điện cũng đã góp phần không nhỏ vào việc cắt lũ, như hồ Quảng Trị cắt 21%, Hương Điền cắt tới 45% đỉnh lũ, hồ Bình Điền 42,3%, Sông Bung 4 cắt 42,7%, Đăk Mi 4 cắt 74,7%, đặc biệt trận lũ ngày hôm qua, hồ Sông Tranh 2 cắt tới hơn 50%... 

Đánh giá về các thông tin việc xây dựng nhiều thủy điện vừa và nhỏ tại các khu vực vùng núi gây mất rừng, xói mòn, sạt lở đất, ông Sơn cho rằng, thủy điện nhỏ chủ yếu ở miền núi, đặc điểm địa hình dốc, lòng hồ hẹp với điểm đặc trưng là mùa khô ít nước, mùa lũ nước cao. Cùng với đó, mỗi dòng sông đều có hành lang thoát lũ tự nhiên nên sự ảnh hưởng của công trình thủy điện tới việc rất rừng là rất hạn chế.

Theo ông Đỗ Đức Quân, Phó cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, Bộ Công Thương, dư luận không đồng thuận với thủy điện vì lý do gây lũ, tôi cho rằng không chính xác, có thể do thông tin chưa đến với người dân đầy đủ nên tạo ra những sai lệch thông tin.

Làm thế nào để sống chung với thủy điện và mưa lũ?

Từ năm 2009, cuộc hội thảo do Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam tổ chức đã khẳng định, thủy điện không phải nguyên nhân gây ra lũ lụt, song tại hội thảo, các nhà khoa học đã lưu ý một số vấn đề mà các thủy điện miền Trung cần phải khắc phục như: Khâu tái quy hoạch phát triển, sắp xếp lại dân cư để ứng phó với việc xả lũ ở các hồ chứa.

Năm 2013, Bộ Công Thương từng họp đánh giá kiểm điểm tình hình phát triển thủy điện và công tác quản lý vận hành các hồ chứa thủy điện khu vực miền Trung - Tây Nguyên, hội nghị khẳng định, các hồ chứa chỉ "góp phần giảm lũ chứ không gây thêm lũ". Thế nhưng hội nghị cũng đặt vấn đề phải phối hợp quản lý hồ chứa thủy điện tốt hơn, nhất là công tác quản lý vận hành xả lũ, làm tốt công tác dự báo…

Bài 5: Giải pháp nào để sống chung với cả lũ và thủy điện nhỏ?
Theo ý kiến của các chuyên gia, thủy điện vừa và nhỏ không phải là tác nhân chính gây lũ lụt như nhiều thông tin đồn thổi thời gian qua. Ảnh: Cand.vn

Cũng thời điểm năm 2013, khi người viết bài này là phóng viên theo dõi Quốc hội, đã chứng kiến việc Quốc hội thảo luận sôi nổi và quyết liệt trong cắt giảm các dự án thủy điện nhỏ và vừa. Để có căn cứ cho Quốc hội ban hành Nghị quyết số 62/2013/QH13 ngày 27-11-2013 của Quốc hội Khóa XIII về tăng cường công tác quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng, vận hành khai thác công trình thủy điện (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 62 của Quốc hội), trước đó, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội đã có một báo cáo kết quả giám sát bước đầu tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển thủy điện.

Báo cáo đánh giá: “Không chỉ đem lại ích lợi to lớn trong sản xuất điện, các hồ chứa thủy điện có dung tích phòng lũ thường xuyên khoảng 9,35 tỷ m3, cùng với các hồ chứa thủy điện khác tích nước trong mùa lũ, đã góp phần đáng kể trong việc chủ động cắt, giảm lũ để bảo vệ và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội khu vực hạ du”. Trong 5 hạn chế mà báo cáo đưa ra, hoàn toàn không có vấn đề nào đề cập đến thủy điện nhỏ gây ra lũ lụt. Theo báo cáo, tổng số dự án thủy điện nhỏ nằm trong quy hoạch đã được phê duyệt là 1.108 dự án. Tuy nhiên, theo báo cáo cũng bộc lộ những con số đáng suy nghĩ. Trong số 45 thủy điện công suất lớn hơn 30MW đã có: 41/45 phương án phòng chống lụt bão, bảo đảm an toàn đập được Bộ Công Thương phê duyệt nhưng mới chỉ có 3/150 thuỷ điện nhỏ hơn 30MW được UBND cấp tỉnh phê duyệt. Đối với phương án phòng chống lũ, lụt vùng hạ du đập do xả lũ hồ chứa: 6/45 thuỷ điện lớn hơn 30MW; 2/150 thủy điện nhỏ hơn 30MW có phương án được UBND cấp tỉnh phê duyệt.

Như vậy, rõ ràng việc phòng chống ngập lụt cho hạ du vẫn là một câu hỏi lớn!

Chính vì vậy, Nghị quyết 62 của Quốc hội đã yêu cầu đưa ra khỏi quy hoạch 424 dự án, tạm dừng có thời hạn 136 dự án, không xem xét đưa vào quy hoạch 172 vị trí tiềm năng, tiếp tục rà soát, đánh giá 158 dự án thủy điện. Nghị quyết cũng nêu rõ: Chất lượng quy hoạch và quyết định đầu tư xây dựng nhiều công trình thủy điện, nhất là các công trình vừa và nhỏ chưa đáp ứng đầy đủ mục tiêu, yêu cầu về bảo đảm an toàn, bảo vệ môi trường, sử dụng hợp lý tài nguyên nước và hiệu quả tổng hợp kinh tế - xã hội. Nhiệm vụ đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường đối với quy hoạch, dự án, công trình thủy điện vừa và nhỏ chưa được chú trọng đúng mức, chất lượng chưa cao. Tại một số công trình thủy điện, việc quản lý chất lượng xây dựng, bảo đảm an toàn vận hành khai thác, thực hiện quy trình vận hành hồ chứa, điều tiết nước chưa tuân thủ nghiêm quy định của pháp luật, gây tác động tiêu cực…”. Nghị quyết cũng chỉ rõ phải: “Xây dựng đầy đủ phương án phòng chống lũ, lụt cho vùng hạ du và cơ chế giám sát của cộng đồng đối với việc xả lũ của các hồ chứa”.

Sau hơn 5 năm thực hiện nghị quyết, báo cáo của Chính phủ vào năm 2017 cho biết, Bộ Công Thương đã tổ chức tổng cộng 10 đoàn công tác đi làm việc và trực tiếp kiểm tra về quy hoạch, chất lượng xây dựng công trình, quy trình vận hành hồ chứa, công tác an toàn, phòng, chống lụt, bão và các vấn đề liên quan đến lĩnh vực thủy điện trên địa bàn 17 tỉnh gồm, chủ yếu ở miền Trung và Tây nguyên; phối hợp với các địa phương tăng cường chỉ đạo thực hiện vận hành các hồ chứa thủy điện, rà soát hoàn thiện các quy trình vận hành hồ chứa còn bất cập. Đến năm 2017, đã xây dựng phương án phòng, chống lũ lụt vùng hạ du đập cho 222/278 đập, được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Về phê duyệt Quy trình vận hành hồ chứa thủy điện: 269/278 hồ đã có quy trình vận hành được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, 09/278 hồ đang xây dựng quy trình vận hành.

Nỗ lực là vậy, nhưng thực tế hiện nay, xung quanh vấn đề này vẫn tồn tại nhiều bất cập. Trên thực tế, trong quá trình vận hành hồ thủy điện, vẫn còn một số địa phương, chủ đầu tư chưa làm tròn trách nhiệm. Tại báo cáo trả lời chất vấn trong lĩnh vực Công Thương gửi Quốc hội mới đây, Chính phủ đã điểm danh một số dự án thủy điện chưa tuân thủ quy định như: Sau khi kiểm tra đột xuất công trình thủy điện Đăk Kar, Bộ Công Thương đã lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống thiên tai đối với chủ đầu tư và chuyển Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Nông xử lý theo thẩm quyền. Sau khi kiểm tra công tác vận hành hồ chứa thủy điện Sử Pán 1, Bộ Công Thương phối hợp với địa phương xử lý vi phạm của chủ đầu tư trong mùa lũ năm 2019 vì xả lũ khẩn cấp hồ chứa khi chưa thông báo, cảnh báo cho các cơ quan chức năng và nhân dân vùng hạ du, gây ra nhiều hậu quả xấu.

Thực tế cho thấy, tuy thủy điện không phải là nguyên nhân gây ra lũ, nhưng nếu xả lũ không đúng quy trình chặt chẽ thì có thể gây ra lũ và nhiều hậu quả nghiêm trọng nên vấn đề chính lại ở khâu quả lý, điều hành, vận hành nhà máy.

Trong một hội thảo cách đây ít lâu, lãnh đạo Nhà máy Thủy điện Hòa Bình từng thẳng thắn cho biết, để đánh giá thủy điện có gây ngập lụt hay không, trước tiên phải xem quy trình xả nước có đúng hay không. “Ngay như thiết kế chúng tôi được phép xả xuống hạ du 37.800 m3/s, nhưng chỉ cần xả một nửa lưu lượng là toàn bộ thành phố Hòa Bình đã buộc phải sơ tán”.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Hoàng Hiệp nhấn mạnh vai trò hồ chứa trong giảm lũ như trong đợt mưa lũ vừa qua ở Thừa Thiên-Huế, hồ chứa đã giảm lũ cho TP Huế gần 1m, nếu không hậu quả còn lớn hơn. Nhưng trước câu hỏi thủy điện có xả lũ trộm hay không, ông Hiệp cho biết: “Với hồ thủy điện lớn, tôi khẳng định là không, còn hồ nhỏ thì không thể xác định được. Bởi hầu hết thủy điện nhỏ đều chưa có thiết bị đo lưu lượng nước vào và ra; truyền thông tin tự động về trung tâm điều hành địa phương.

Trong quy trình hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vận hành liên hồ chứa trên 11 lưu vực lớn cả nước, đa số là hồ thủy điện lớn, nhưng thủy điện nhỏ thuộc quản lý, điều hành của các tỉnh. “Chúng tôi đã nhận ra những bất cập trong quản lý các thủy điện nhỏ và đã bàn với Bộ Công Thương để khắc phục trong tương lai gần”, ông Nguyễn Hoàng Hiệp nói.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cũng cho rằng, khi mưa lũ còn diễn biến phức tạp ở miền Trung, thì phải tập trung điều hành xả lũ khoa học. Công tác vận hành liên hồ chứa tại các tỉnh miền Trung từ Quảng Bình đến Quảng Nam cần đặc biệt chú ý điều hành, điều tiết, cắt lũ phải điều hành rất “nghệ thuật”. Thảm họa hay không là công tác điều hành, vận hành ở các trục hồ rất lớn".

Theo chuyên gia thủy lợi, PGS, TS Phạm Văn Song, Phó hiệu trưởng Trường Đại học Việt Đức, các con đập thủy lợi, thủy điện là dạng công trình lợi dụng tổng hợp nguồn nước phục vụ đa mục tiêu, có thể chỉ là thuần túy phát điện, có thể phục vụ dâng mực nước thượng lưu, phục vụ phòng lũ, hoặc du lịch. Các hạng mục chủ yếu của nó là có một đập dâng chặn ngang một con sông có thế là dạng đập đất, hoặc đất đá hỗn hợp hoặc bê-tông... và một hạng mục gọi là đập tràn để xả lũ (phần nước thừa) có thể có cửa van hoặc không có cửa van và một số hạng mục khác như cống lấy nước, cống xả cát (phù sa) … Khi có dự báo lũ lớn, đặc biệt các con lũ lịch sử, vượt thiết kế, các nhà máy thủy điện cuống cuồng xả bớt phần nước trong hồ nhằm hạ mực nước hồ để đề phòng khi lũ quá lớn vượt mức cho phép gây nguy cơ vỡ đập. Điều này vô hình chung ban đầu làm ngập lụt hạ du mặc dù lũ chưa tới. Đặc biệt ở một số lưu vực sông có nhiều thủy điện nhỏ liên tiếp dạng bậc thang, xả nước cùng lúc, cộng với lũ chính tới sẽ gây ngập lớn hơn cho hạ lưu. Đây là lý do mọi người ban đầu đổ tội cho thủy điện nhỏ. Trong quá trình xây các công trình thủy điện bắt buộc phải có một quy trình vận hành hồ chứa, với nhiều công trình trên một hệ thống sông thì quy trình phức tạp hơn gọi là quy trình liên hồ. Công tác điều hành và quy trình này rất quan trọng, phải được xây dựng khoa học và quản lý chặt chẽ.

Thủy điện nhỏ - Trách nhiệm chính từ các địa phương

Như vậy hiện nay, có thể thấy bài toán quản lý thủy điện nhỏ chủ yếu nằm ở trách nhiệm và sự chủ động của các địa phương, từ phê duyệt quy hoạch đến quản lý vận hành. Hiện nay vẫn còn tồn tại rất nhiều bất cập như chưa có bản đồ cảnh báo các vùng ngập lụt hạ du mùa mưa lũ; chưa có các thiết bị giám sát, cảnh báo mức nước trong hồ thủy điện nhỏ, giám sát chặt chẽ quy trình xả lũ của thủy điện nhỏ.

Vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải có một giải pháp quyết liệt hơn, hiệu quả hơn trong xử lý các đơn vị vi phạm quy trình xả lũ. Năm 2018, việc hàng loạt nhà máy thủy điện Bản Vẽ, Khe Bố, Nậm Nơn, Bản Ang, Chi Khê ở Nghệ An xả lũ, gây thiệt hại nghiêm trọng cho nhiều bản làng ở hai huyện Tương Dương, Con Cuông. Theo kết quả khảo sát của Đoàn liên ngành tỉnh Nghệ An, việc xả lũ sai quy trình của các nhà máy thủy điện đã gây thiệt hại khoảng 130 tỷ đồng nhưng sau đó việc bồi thường rất chậm trễ, nhỏ giọt. Một vụ việc khác xảy ra năm 2019, hai người dân ở huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An chèo thuyền đánh bắt cá dưới chân đập thủy điện Nậm Nơn thì nhà máy thủy điện còi thông báo xả nước khiến một người chết. Sau đó, nhà máy đã bồi thường 650 triệu đồng. Trong vụ xả lũ sai quy trình ở Lào Cai, đến nay gần 2 năm trôi qua, việc bồi thường vẫn chưa dứt điểm vì vướng nhiều điểm trong cơ chế, thủ tục pháp luật. Rõ ràng là đã đến lúc phải có những chế tài nghiêm khắc và có những thiết chế hiệu quả để các chủ đầu tư thủy điện nhỏ và vừa không thể tùy tiện xả lũ.

Bài 5: Giải pháp nào để sống chung với cả lũ và thủy điện nhỏ?
Các công trình chính yếu của Nhà máy thủy điện Rào Trăng 4 như đập, ống dẫn nước vẫn nguyên vẹn sau những trận mưa cực đoan thời gian qua. 

Về lâu dài, theo các nhà khoa học, các công trình hồ đập có thể coi là giải pháp công trình để hạn chế hậu quả của lũ lụt nhưng ở Việt Nam, tỷ lệ này đạt khoảng 20%, nhưng 80% còn lại vẫn phụ thuộc vào thiên nhiên. Chính vì thế, không thể chỉ sử dụng thủy điện như phương án chính hạn chế thiệt hại của lũ lụt, mà phải phải sử dụng nhiều biện pháp phi công trình, sống chung với mưa lũ, bão lụt.

Tháng 7-2020 vừa qua, Ban chỉ đạo Trung ương về Phòng, chống thiên tai đã tổ chức Hội thảo khoa học "Giải pháp công nghệ trong phòng, chống lũ quét, sạt lở đất". Tại hội thảo, các chuyên gia đến từ Đài Loan (Trung Quốc), Nhật Bản đã đưa ra các giải pháp xử lý sạt lở mái dốc, công nghệ đập ngăn bùn đá giảm nhẹ rủi ro lũ quét, sạt lở đất…, nhưng như ở Nhật Bản, giải pháp quan trọng nhất vẫn là tăng cường cảnh báo, thực hiện giải pháp sơ tán nhân dân trước nguy cơ hiểm họa. Phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng mới đây cũng đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Bộ Xây dựng xây dựng chương trình đầu tư công trung hạn xây dựng nhà chống bão và lũ ở miền Trung.

Ông Đỗ Đức Quân cho biết, sau đợt bão lũ lịch sử vừa qua tại miền Trung, để tiếp tục rà soát và quản lý chặt các công trình thủy điện, Bộ Công Thương sắp tới sẽ yêu cầu các địa phương thẩm định, đánh giá về năng lực của toàn bộ các nhà máy thủy điện hiện có.

Hy vọng rằng từ những cơ sở đó, thời gian tới thủy điện nhỏ sẽ tiếp tục được quản lý tốt hơn, thật sự trở thành nguồn tài nguyên quý giá, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.

MINH SƠN – THẢO NGUYÊN

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu