Chuyển đến nội dung chính

Tự nguyện trả lại hàng chục ha đất lâm nghiệp đã lấn chiếm

 Tại Gia Lai, nhiều người dân trả lại diện tích rừng lấn chiếm, đặc biệt, còn có cả những nhóm "lâm tặc" sau khi được vận động, tuyên truyền, nay trở thành những người bảo vệ rừng tích cực. 

Từ nguồn Quỹ dịch vụ bảo vệ môi trường rừng, các đơn vị nhận khoán đã làm tốt công tác điều phối kinh phí kết hợp với tuyên truyền nâng cao nhận thức người dân vùng lõi trong công tác bảo vệ rừng.

Chú thích ảnh
Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Kon Chư Răng (huyện Kbang, tỉnh Gia Lai) tuyên truyền, vận động, hướng dẫn người dân trồng lại các loại cây lâm nghiệp.

Người dân trả lại đất lâm nghiệp lấn chiếm

Tính đến năm 2019, tỉnh Gia Lai có hơn 17.000 hộ dân tự nguyện kê khai hơn 31.500 ha rừng bị lấn chiếm, chủ yếu diện tích rừng bị lấn chiếm này do người dân phá rừng làm nương rẫy. Để hạn chế tình trạng trên, tỉnh Gia Lai nhận định cần phải tạo việc làm cho người dân vùng lõi rừng, đảm bảo nguồn thu nhập ổn định để người dân không vi phạm lâm luật.

Ban Quản lý Khu Bảo tồn thiên nhiên Kon Chư Răng (huyện Kbang) là một trong những đơn vị làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức bảo vệ rừng cho người dân, qua đó, nhiều hộ dân nơi đây đã tự nguyện trả lại hàng chục ha đất lâm nghiệp lấn chiếm.

Anh Nguyễn Văn Lập, thôn Trạm Lập, xã Sơn Lang, huyện Kbang (Gia Lai) cho biết, trước đây, gia đình khó khăn nên đã lấn chiếm 2 ha đất rừng của Khu Bảo tồn Kon Chư Răng làm rẫy. Được cán bộ Khu Bảo tồn tuyên truyền, vận động, gia đình anh đã trả lại đất lâm nghiệp cho nhà nước. Sau đó, hai vợ chồng anh Lập được nhận vào làm nhân viên Khu Bảo tồn. Cuộc sống ổn định, anh không còn ý định phát nương làm rẫy như trước đây.

Theo ông Nguyễn Văn Minh, Phó Bí thư Chi bộ, Trưởng ban Công tác mặt trận thôn Trạm Lập, xã Sơn Lang, hiện thôn có khoảng 15 tổ nhận khoán, hưởng lợi từ tiền dịch vụ môi trường rừng, chủ yếu là các hộ nghèo và cận nghèo trong thôn. Trung bình, mỗi hộ dân nhận giao khoán bảo vệ rừng thu nhập khoảng 6 triệu đồng/tháng từ nguồn kinh phí dịch vụ môi trường rừng. Đây là mức thu nhập đảm bảo cuộc sống tối thiểu của người dân tộc thiểu số trong vùng, nhờ đó đã hạn chế tối đa tình trạng phát nương làm rẫy.

Ông Trịnh Viết Ty, Giám đốc Khu Bảo tồn thiên nhiên Kon Chư Răng cho biết đơn vị đã áp dụng phương thức chuyển từ đối đầu với dân sang đối thoại, đối thoại sang đối tác để giải quyết tốt vấn đề tranh chấp, chồng lấn đất với người dân vùng đệm thuộc lâm phần Ban Quản lý. Qua đó, Khu Bảo tồn đã vận động người dân vùng đệm nhận khoán bảo vệ diện tích rừng phòng hộ. Có thời điểm, khoảng hơn 60% cán bộ công nhân viên và người lao động của Khu Bảo tồn Kon Chư Răng là người dân vùng đệm, trong đó hầu hết là người dân tộc Bahnar. Ngoài ra, đơn vị đã vận động tất cả 6 thôn làng vùng đệm nhận khoán bảo vệ rừng của Kon Chư Răng với đơn giá 400.000 đồng/ha /năm, ưu tiên khoán cho các hộ nghèo, cận nghèo. Cuộc sống được đảm bảo, người dân tích cực phối hợp với Ban Quản lý để giữ rừng khiến tình trạng lấn chiếm đất rừng đến nay hầu như không còn tồn tại.

Cảm hóa lâm tặc thành người bảo vệ rừng

Câu chuyện khó tin đang hiện hữu tại Ban Quản lý rừng phòng hộ Hà Ra, về việc anh Dương Xuân Kiếm (sinh năm 1973, thôn 4, xã Đắk Jơ Ta, huyện Mang Yang, Gia Lai) trước đây được nhiều người trong vùng biết tiếng là "lâm tặc" đầu sỏ, manh động nhưng nay đã trở thành người bảo vệ rừng đắc lực nhất của Ban Quản lý rừng phòng hộ Hà Ra.

Chú thích ảnh
 Anh Dương Xuân Kiếm (áo xanh, đi đầu) tại thôn 4, xã Đắk Jơ Ta (Mang Yang, Gia La) thuộc Ban Quản lý rừng phòng hộ Hà Ra, tỉnh Gia Lai tuần tra diện tích rừng nhận giao khoán.

Hiện tại, anh Kiếm được giao là Tổ trưởng quản lý 150 ha rừng tự nhiên khu vực giáp ranh giữa huyện Mang Yang với Khu Bảo tồn thiên nhiên Kon Ka Kinh và huyện Kbang (Gia Lai). Cùng bảo vệ rừng với anh Kiếm còn có 3 người khác trong thôn, trước đây cũng là lâm tặc. Tổng cộng, nhóm anh Kiếm được giao bảo vệ 400 ha rừng tự nhiên.

Anh Kiếm cho biết, trước đây, do nhận thức còn hạn chế, anh cùng nhiều đối tượng rủ nhau phá rừng lấy gỗ mong làm giàu nhanh. Tuy nhiên, khi được cán bộ Ban Quản lý rừng phòng hộ Hà Ra vận động, tuyên truyền, anh đã thay đổi tư duy, tham gia bảo vệ rừng để chuộc lại lỗi lầm trong quá khứ. Hễ thấy người dân có dấu hiệu vào rừng cưa gỗ, anh Kiếm đã chặn đường, yêu cầu quay về. Tối đến, anh tìm ngay đến tận nhà để tuyên truyền về tác hại của việc phá rừng. Với ngoại hình vạm vỡ, đi cùng một nhóm thanh niên trong tổ bảo vệ rừng, các đối tượng muốn phá rừng khu vực này cũng e ngại. Thấy anh Kiếm làm gay gắt, nhiều nhóm đối tượng tìm đến nhà dọa nạt, đòi đánh thậm chí đưa tiền để anh làm ngơ nhưng anh Kiếm nhất định không đồng ý.

"Anh Chín, Trưởng Ban quản lý rừng phòng hộ Hà Ra đã cảm hóa tôi, đối xử rất tốt với anh em chúng tôi nên tôi không làm trái với lương tâm được. Công việc bảo vệ rừng khá vất vả.  Chúng tôi thường xuyên đi tuần tra, có nơi phải cắm chốt qua đêm ở lại trong rừng nhưng đã nhận tiền khoán bảo vệ rừng phải làm đến nơi đến chốn." - anh Kiếm tâm sự.

Ban Quản lý rừng phòng hộ Hà Ra là đơn vị bảo vệ rừng tốt nhất tại tỉnh Gia Lai.Từ nhiều năm nay, tại đây không có vụ xâm lấn hay phá rừng nào xảy ra.  Đơn vị quản lý bảo vệ gần 14.000 ha rừng, trong khi đó biên chế chuyên trách chỉ có 15 người, khiến công tác bảo vệ rừng gặp nhiều áp lực. Để có kết quả giữ rừng như vậy, ông Nguyễn Văn Chín, Trưởng Ban Quản lý rừng phòng hộ Hà Ra, nảy ra ý định tìm, chọn người "cộm cán" ở đó để giao rừng cho họ bảo vệ, chia nhỏ các diện tích rừng cho các tổ nhận giao khoán, bảo vệ. Từ cách làm thành công đối với nhóm "lâm tặc" như anh Kiếm ở xã Đắk Jơ Ta, ông Chín còn giao 500 ha rừng cho nhóm 20 hộ dân ở khu vực đèo Mang Yang quản lý; giao gần 300 ha rừng cho Chi hội Cựu chiến binh thôn Phú Danh... Nhờ vậy, tình trạng xâm lấn, phá rừng rất hiếm khi xảy ra, rừng được bảo vệ tốt, là điển hình bảo vệ rừng của tỉnh Gia Lai.

Tỉnh Gia Lai có gần 600.000 ha đất lâm nghiệp trong đó 500.000 ha có rừng cung ứng dịch vụ môi trường rừng. Hiện, khoảng 167 cơ sở cung ứng dịch vụ  môi trường rừng trên số diện tích này với 22 Ban Quản lý rừng phòng hộ, đặc dụng; 11 Công ty Lâm nghiệp; 21 chủ rừng là cộng đồng dân cư; 104 UBND xã và 9 chủ rừng khác. Ngoài việc chi trả công khai, minh bạch kinh phí dịch vụ môi trường rừng bằng hình thức chuyển trực tiếp vào tài khoản đơn vị nhận khoán, các cơ sở cung ứng dịch vụ môi trường rừng còn làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức người dân vùng lõi trong việc bảo vệ rừng đầu nguồn.

Theo báo cáo từ Quỹ dịch vụ bảo vệ môi trường rừng tỉnh Gia Lai, từ năm 2011-2020, Quỹ đã chi cho các đơn vị nhận khoán trên địa bàn số tiền 708 tỷ đồng. Nguồn kinh phí này góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ rừng, làm giảm số vụ vi phạm lâm luật qua từng năm (năm2011: 1.422 vụ; năm 2016: 922 vụ; năm 2019: 560 vụ, 8 tháng năm 2020: 400 vụ). Tạo nguồn thu cho  các chủ rừng, nâng cao thu nhập cho người dân; nâng tổng số 711 hộ nhận khoán (năm 2011) lên 12.170 hộ (tăng 17 lần) với mức thu nhập khoảng 6 triệu đồng/hộ/năm góp phần cải thiện đời sống cho người dân, đặc biệt là người dân tộc thiểu số trên địa bàn.

Bài và ảnh: Hồng Điệp

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu