Chuyển đến nội dung chính

Tổng Cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp: Phát triển rừng là con đường ngắn nhất chống lại biến đổi khí hậu

Trước nhiều ý kiến dư luận cho rằng, lũ lụt ở miền Trung những ngày qua có một phần nguyên nhân là do phá rừng, PV Dân Việt đã phỏng vấn ông Nguyễn Quốc Trị, Tổng Cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NNPTNT). Ông Trị cho rằng: Nói lũ lụt ở miền Trung do phá rừng là không đúng.

GS Nguyễn Ngọc Lung - Viện trưởng Viện Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng đã gắn bó gần 60 năm với rừng, được mệnh danh là “người của rừng” (ông thường nói vui gọi là người rừng). Ông chính là người đề xuất và tham gia thực hiện dự án trồng rừng đầu tiên của Việt Nam, trả lại màu xanh cho đất trống, đồi núi trọc.

Ông có những chia sẻ thẳng thắn với Tuần Việt Nam:

Thủy điện nhỏ hoạt động tự phát, hy sinh rừng lấy điện

Thưa giáo sư, các công trình thủy điện nhỏ được xây dựng kéo theo nhiều diện tích rừng tự nhiên phải chuyển đổi mục đích sử dụng có phải là nguyên nhân gây nên tình trạng lũ lụt nghiêm trọng ở miền Trung hiện nay?

Việt Nam là 1 trong 6 nước trên thế giới chịu tác động lớn nhất của biến đổi khí hậu 4 năm gần đây. Miền Trung lại là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất tại Việt Nam.

Về nguyên nhân khách quan, con người rất khó khắc phục bởi đó là quy luật tự nhiên mưa gió, yếu tố địa hình phức tạp của miền Trung vừa có vùng ven biển, lại có đồng bằng, trung du, đồi núi trọc rồi núi cao và dốc đứng…

Nhưng ở đây có cả nguyên nhân chủ quan và con người có thể khắc phục hay giảm nhẹ thiệt hại.

Giáo sư ‘người rừng’: Chúng ta đang buôn bán, đánh đổi với thiên nhiên
Hiện trường sạt lở ở thủy điện Rào Trăng 3, tỉnh Thừa Thiên - Huế

Nhà máy vì quyền lợi của mình nên luôn giữ mực nước cao để mùa khô không có nước để phát điện. Nếu điều tiết thống nhất trên cả dòng, tôi sẽ yêu cầu anh giảm hẳn mực nước đi, như thế mưa có thêm nữa hay kéo dài vẫn khó có thể xảy ra tình trạng tràn đập hay vỡ đê…

Ở đây, con người điều tiết thủy điện theo bản năng chứ không theo dòng chảy.

Chúng ta đang để các nhà máy thủy điện nhỏ hoạt động kiểu tự phát. Các nhà máy lớn thì nhà nước xây dựng và quản lý. Các nhà máy vừa và nhỏ trong 20 năm qua thì xã hội hóa, tư nhân làm thủy điện. Như vậy ta đang phá vỡ quy hoạch của cả con sông. Nhẽ ra trên một dòng sông ta chỉ làm 5 hay 10 nhà máy thì có thể “bảo nhau”, cam kết với nhau cùng điều tiết nước trong mùa mưa hay mùa khô, cùng vì sự nghiệp phát triển chung của đất nước hơn là vì nhà máy.

Giáo sư ‘người rừng’: Chúng ta đang buôn bán, đánh đổi với thiên nhiên
Giáo sư Nguyễn Ngọc Lung

Tiếp đến là chúng ta đang chia làm hai cấp quản lý thủy điện. Nhà máy nào có công suất trên 10 MW thuộc nhà nước (Bộ TNMT thẩm định phê duyệt). Nhà máy công suất dưới 10  MW do cấp tỉnh phê duyệt.

Rõ ràng là “con voi sắp chui lọt lỗ kim” mà không bị ngăn chặn. Dù là nhà máy thủy điện công suất nhỏ 5-10 MW cũng đã mất bao nhiêu diện tích rừng chuyển đổi mục đích sử dụng. Doanh nghiệp làm thủy điện trốn lập báo cáo đánh giá tác động môi trường.  

Như vậy lỗi không ở thủy điện mà là cách thức sử dụng, cách thức quản lý, điều tiết điều phối nó như thế nào.

Chúng ta đang đánh đổi môi trường đổi lấy lợi ích kinh tế, hy sinh rừng để lấy năng lượng điện. Chúng ta cần phải xem sự đánh đổi này là có lợi hay không. Nói một cách khác, người ta gọi đây là buôn bán, đánh đổi với thiên nhiên.

Giáo sư ‘người rừng’: Chúng ta đang buôn bán, đánh đổi với thiên nhiên
Một người dân ở xã Tân Hóa, huyện Minh Hóa (Quảng Bình) ngồi trên mái nhà chờ ứng cứu. Ảnh chụp lúc 10h ngày 19/10

Ở tầm vĩ mô ta quản lý được, nhưng vi mô lại khó quản. Kiểu như tôi chỉ định làm 5 nhà máy thủy điện thì kiểm soát được, nhưng lại có thêm 20 nhà máy nhỏ hơn xen kẽ, không có sự quản lý thống nhất thì việc điều tiết nước đã bị phá vỡ.

Thà giữ 1ha rừng tự nhiên còn hơn phát triển 5 - 10 ha rừng trồng

Chúng ta đề cập tới câu chuyện rừng trồng, nhưng các chuyên gia quốc tế khuyến cáo rằng thà giữ 1ha rừng tự nhiên còn hơn phát triển 5-10ha rừng trồng. Giáo sư có chia sẻ như thế nào?  

Ta cần nói rõ điều này. Đó là vai trò của rừng tự nhiên. Nếu đất trống, đồi trọc, chỉ có cỏ và cây bụi khi khi mưa xuống có tới 95 % chảy tràn trên mặt, chỉ có 5% thấm một lớp mỏng vào đất. Lượng nước chảy tràn trên mặt gọi là , như lũ ống, lũ quét…

Nhưng có rừng tự nhiên thì 90% nước rơi xuống không chảy tràn trên mặt. Nếu một cơn mưa bình thường kéo dài 1-2h với lượng mưa khoảng 100mm thì không có nước chảy tràn trên mặt, hết cơn mưa là mặt đất không có nước. Toàn bộ lượng nước trở thành nước ngầm.

Rừng tự nhiên tốt như thế vì nó tán cây, các lớp cây khác nhau, có thảm mục, hệ rễ sâu 20-30m (chiều cao cây như nào rễ sâu như thế). Nếu vẽ hệ thống nước ngầm sẽ thấy rất chằng chịt, đào giếng bất kỳ chỗ nào cũng có nước, chứng tỏ là hệ thống nước ngầm rất đều. Dù hết mưa, nắng tháng này qua tháng khác thì hệ thống nước ngầm vẫn đủ cung cấp.

Trong khi đó, rừng trồng chỉ có tác dụng bằng 1/5 rừng tự nhiên. Và thực tế là khi xây dựng nhà máy thủy điện, rất ít chủ đầu tư có phương án trồng rừng thay thế khi rừng tự nhiên bị chuyển đổi mục đích sử dụng. Hậu quả là rừng tự nhiên mất đi, rừng trồng không bù nổi diện tích đã mất mà chưa tính đến hiệu quả giữ nước, giữ đất, giữ môi trường của hai loại rừng. 

Giáo sư ‘người rừng’: Chúng ta đang buôn bán, đánh đổi với thiên nhiên
Bộ đội biên phòng đưa đồ cứu trợ tới thôn Đông Trường, xã Hải Trường, huyện Hải Lăng, Quảng Trị

Trong khi thế giới ra sức bảo vệ rừng tự nhiên thì chúng ta lại phá rừng tự nhiên để làm kinh tế. Rừng tự nhiên dù có nghèo kiệt thế nào chăng nữa thì về đa dạng sinh học cũng gấp nhiều lần rừng trồng vì các tác dụng như tôi đề cập ở trên. Vì thế, các chuyên gia quốc tế khuyến cáo rằng thà giữ 1ha rừng tự nhiên còn hơn phát triển 5 - 10 ha rừng trồng. 

Ở Việt Nam dù độ che phủ rừng đã tăng lên nhưng còn rất ít rừng tự nhiên, chủ yếu là rừng trồng, chất lượng rừng rất thấp.

Lấy đi nhiều mà trả lại bao nhiêu?

Chúng ta đang phải trả giá cho điều mà giáo sư đã nói là buôn bán, đánh đổi với thiên nhiên?

Đúng như thế. Mình thấy rất rõ điều đã hy sinh lại không biết là hy sinh. Tôi đổi các rủi ro lấy thuận lợi là kinh tế, nhưng sự rủi ro lớn đến mức nào thì lại không biết, lại bỏ ngoài - đó là rủi ro về môi trường.

Năm 1945, rừng tự nhiên của ta còn chiếm khoảng 95%. Trải qua quá trình phát triển kinh tế, rừng trở nên cạn kiệt. Những năm 92-93, Nhà nước có chương trình phục hồi sinh thái cho đất nước - chương trình 327, khôi phục độ che phủ của rừng từ 27% lên 42%, gần mức khi người Pháp ra đi là 43%.

Nhưng đó là về mặt diện tích, còn chất lượng rừng như tôi nói vẫn chưa đạt được. Quan trọng vừa là tổng diện tích, tỷ lệ rừng có trên lãnh thổ nhưng còn là bố trí ở chỗ nào. Có những quốc gia chỉ có 30 - 35% rừng nhưng cực kỳ an toàn vì đã có quy hoạch gọi là lâm phận ổn định, chỗ nào cần có rừng, loại rừng gì thì người ta làm đúng như thế.

Sự trả giá vì mất rừng chúng ta cũng đang chứng kiến rất rõ. Mất rừng, lũ lụt xảy ra ở ngay thượng nguồn chứ không phải hạ lưu. Thế giới đã khẳng định, rừng là nhân tố tốt nhất để người dân tham gia vào chống biến đổi khí hậu. Người nghèo cũng có thể tham gia, quan trọng họ trồng rừng và giữ được rừng. Chúng ta đã lấy của rừng rất nhiều, nhưng trả lại cho rừng được bao nhiêu?

Thái An

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu