Chuyển đến nội dung chính

Gắn bảo vệ rừng với tạo sinh kế cho người dân vùng cao

 Nhờ đẩy mạnh bảo vệ, phát triển rừng đã giúp người dân vùng cao Lai Châu tạo sinh kế, có thêm thu nhập, ổn định cuộc sống.

Chú thích ảnh
Người dân xã Ka Lăng, huyện Mường Tè (Lai Châu) nâng cao ý thức chăm sóc, bảo vệ và phòng cháy chữa cháy rừng. Ảnh: Việt Hoàng/TTXVN

Lai Châu là một tỉnh vùng cao biên giới phía Bắc với địa hình đồi núi rộng, diện tích đất lâm nghiệp lớn, tạo điều kiện trong việc phát triển kinh tế đồi rừng cho người dân. Tỉnh hiện có hơn 520.000 ha đất lâm nghiệp; trong đó, diện tích đất rừng hiện có 470.000 ha, chiếm trên 90% tổng diện tích đất lâm nghiệp.

Xác định rừng và đất rừng có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, những năm qua, tỉnh Lai Châu đã chỉ đạo các sở, ngành, địa phương tập trung thực hiện tốt việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng; tổ chức cho người dân, chủ rừng ký cam kết bảo vệ rừng.

Mặt khác, tỉnh đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, doanh nghiệp, cộng đồng dân cư về quản lý, bảo vệ, phát triển rừng; đưa nội dung này vào hương ước, quy ước của thôn bản, tổ dân phố, khu dân cư.

Ông Nguyễn Bá Việt, Phó Giám đốc Quỹ bảo vệ và Phát triển rừng (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Lai Châu) cho biết, Quỹ đã chủ động phối hợp với các địa phương thực hiện tốt việc quản lý, bảo vệ rừng, trồng rừng thay thế, chi trả dịch vụ môi trường rừng... gắn với tạo sinh kế, nâng cao thu nhập cho người dân vùng có rừng. Đồng thời, lồng ghép, huy động mọi nguồn từ các chương trình để bảo vệ, phát triển rừng, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho người dân, góp phần giảm nghèo bền vững.

Bên cạnh việc vận dụng các chủ trương, chính sách để triển khai trồng rừng phòng hộ, rừng thay thế, Lai Châu còn quan tâm trồng rừng sản xuất để gắn lợi ích kinh tế với nâng độ che phủ rừng, giúp dân gắn bó với rừng. Cụ thể, UBND tỉnh Lai Châu đã ban hành 3 đề án phát triển trồng quế, sơn tra và mắc ca với nhiều hỗ trợ về cây giống, phân bón, công chăm sóc. Ba loại cây trồng này không chỉ đem lại thu nhập cao mà khi rừng tốt, bà con còn được hưởng tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng.

Cùng đó, tỉnh cũng chú trọng giao khoán diện tích rừng cho đơn vị, người dân bảo vệ. Đến nay, toàn tỉnh có 13 chủ rừng là tổ chức, 106 đơn vị cấp xã được Nhà nước giao quản lý rừng, còn lại là các cá nhân, hộ gia đình. Thu nhập bình quân của các hộ dân nhận khoán bảo vệ rừng từ 2 triệu đồng năm 2012 lên 6,5 triệu đồng năm 2019.

Giai đoạn 2016 - 2020, tỉnh Lai Châu đã chi trả số tiền hơn 2.000 tỷ đồng từ dịch vụ môi trường rừng cho 78.754 hộ dân, với trên 445.000 ha diện tích rừng; năm 2019, chi trả 114 tỷ đồng cho các hộ dân tham gia trồng rừng thay thế với diện tích hơn 5.500 ha. Trong năm 2015 - 2016, tỉnh có gần 353.000 ha rừng được hỗ trợ khoán bảo vệ rừng từ nguồn vốn 30a và vốn sự nghiệp chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững giai đoạn 2016-2020.

Thực tế cho thấy, việc bảo vệ, phát triển rừng đã góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng, khai thác tiềm năng đất đai, khí hậu, nguồn nhân lực tại địa phương; ý thức bảo vệ rừng của người dân được nâng cao, số vụ vi phạm giảm dần qua các năm. Năm 2011 số vụ vi phạm bảo vệ và phát triển rừng là 257 vụ thì đến năm 2019 chỉ còn 172 vụ, giảm 85 vụ. 

Trên các sườn núi, cánh rừng ở huyện Mường Tè, Than Uyên, Sìn Hồ, Tân Uyên, Phong Thổ của tỉnh đến nay đều phủ một màu xanh, góp phần bảo đảm nguồn nước cho sinh hoạt, sản xuất và cho hoạt động thủy điện, giúp giảm nhẹ thiên tai.

Ông Vương Thế Mẫn - Chủ tịch UBND huyện Phong Thổ chia sẻ, toàn huyện có trên 44.000 ha rừng. Thời gian qua, huyện đã thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ phát triển rừng thông qua trồng mới, khoanh nuôi tái sinh gắn với các chính sách hỗ trợ; đồng thời, chú trọng tuyên truyền, nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân và phát huy vai trò cộng đồng trong phòng chống cháy rừng; đấu tranh, ngăn chặn những hành vi đốt, phá rừng làm nương rẫy, khai thác gỗ, lâm sản trái pháp luật.

Ngoài ra, thực hiện tốt chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng gắn với trách nhiệm tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ dân được hưởng lợi. Năm 2019, huyện đã chi trả tiền môi trường rừng 24,173 tỷ đồng cho 12.479 hộ, nâng tỷ lệ che phủ rừng đạt trên 45%.

Người dân huyện Phong Thổ, đặc biệt đồng bào dân tộc thiếu số đã tự giác nâng cao ý thức bảo vệ rừng, có trách nhiệm với rừng và tình trạng đốt nương làm rẫy không còn xảy ra.

Anh Ma A Sèo - Trưởng bản Sin Chải, xã Mù Sang, huyện Phong Thổ tâm sự, trước đây, dân ở đây có thói quen đốt nương để làm rẫy trồng ngô, lúa, từ đó gây ra nhiều vụ cháy rừng, gây thiệt hại lớn cho Nhà nước. Nhiều năm gần đây, được sự tuyên truyền sâu rộng của cán bộ địa phương, dân trong bản từng bước nâng cao ý thức, có trách nhiệm trong việc bảo vệ rừng, chăm sóc, khoanh nuôi tái sinh. 

Giai đoạn 2016 - 2020, toàn tỉnh Lai Châu trồng hơn 6.700 ha quế, trên 1.100 ha sơn tra và 3.600 ha mắc ca; trong đó, diện tích rừng trồng mới là 10.523 ha; trồng cây gỗ lớn 2.232 ha với các loại cây có giá trị như: Lát hoa, Sấu, Giổi, Sa mộc... Khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên tại Lai Châu cũng đạt hơn 39.200 ha với mức hỗ trợ bình quân 0,5 triệu đồng/ha/năm. Diện tích khoanh nuôi tái sinh thành rừng trên 31.400 ha.

Từ việc chú trọng công tác bảo vệ, phát triển rừng gắn với tạo sinh kế cho người dân Lai Châu đã góp phần nâng tỷ lệ che phủ rừng của tỉnh từ 41,6% năm 2011 lên 50,16% năm 2019. Thời gian tới, tỉnh tiếp tục lồng ghép các chương trình hỗ trợ về phát triển lâm nghiệp, đặc biệt là việc bảo vệ rừng; tiếp tục vận động các hộ dân tham gia giao khoán diện tích rừng, gắn trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức trong việc giữ gìn, bảo vệ diện tích rừng hiện có.

Việt Hoàng – Đinh Thùy (TTXVN)

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu