Chuyển đến nội dung chính

Cơ cấu lại ngành lâm nghiệp gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng

 Ngành lâm nghiệp đã xác định rõ mô hình tăng trưởng mới, thay đổi về chất lượng, hiệu quả của các dịch vụ từ rừng cũng như của các chuỗi giá trị lâm sản

Cơ cấu hợp lý ngành lâm nghiệp

Theo Tổng cục Lâm nghiệp, Bộ NN-PTNT, thực hiện quyết định số Quyết định số 1565/QĐ-BNN-TCLN của Bộ NN-PTNT ngày 8/7/2013 về việc phê duyệt đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp, đến nay, cơ cấu về diện tích đất lâm nghiệp, đất rừng sản xuất 50%, đất rừng phòng hộ 36% và đất rừng đặc dụng 14%. Cơ cấu về diện tích thực tế của các loại rừng năm 2019 lần lượt là 53% rừng sản xuất, 32% rừng phòng hộ, 15% rừng đặc dụng.

Theo ông Phạm Văn Điển, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp, Bộ NN-PTNT, để đảm bảo cơ cấu hợp lý, trong giai đoạn tới cần thêm khoảng 1 triệu ha rừng phòng hộ và rừng đặc dụng. Cơ cấu rừng tự nhiên và rừng trồng khá hợp lý: 10,2 triệu ha rừng tự nhiên + 4,2 triệu ha rừng trồng, tương đương với cơ cấu 70% rừng tự nhiên + 30% rừng trồng.

Lực lượng Kiểm lâm Bắc Giang kiểm tra mô hình trồng rừng gỗ lớn tại xã Phong Minh, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Ảnh: Dương Đại Tiến.


Cơ cấu diện tích loài cây trồng rừng sản xuất: Keo, bạch đàn 70% + các loài khác 30%. Đến 2025, tỷ trọng về diện tích của keo, bạch đàn nên được nghiên cứu điều chỉnh. Điều này cũng tác động đến thay đổi cơ cấu giống cây trồng lâm nghiệp, trong đó có cơ cấu giống có năng suất cao, chịu hạn, kháng bệnh...

Về cơ cấu doanh nghiệp trong lĩnh vực lâm nghiệp, đến nay có 4.776 doanh nghiệp trong nước + 624 doanh nghiệp FDI (tỷ lệ là 88,4% doanh nghiệp trong nước + 11,6% doanh nghiệp FDI). Giá trị xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước đạt tỷ lệ 55%, doanh nghiệp FDI đạt 45%. Theo Tổng cục Lâm nghiệp, đây là cơ cấu chưa hợp lý, đặt ra yêu cầu cần hỗ trợ nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp gỗ Việt Nam.

Đến nay, thị trường lâm sản có 5 thị trường lớn là Mỹ, Nhật, EU, Trung Quốc và Hàn Quốc, chiếm tới 85% thị phần xuất khẩu. Riêng thị trường Mỹ chiếm 47% thị phần xuất khẩu gỗ, đây cũng là một cơ cấu chưa hợp lý, tiềm ẩn rủi ro.

Tỷ lệ che phủ của rừng ở hai vùng chưa đạt yêu cầu là Tây Bắc (45,52%) và Tây Nguyên (45,92%). Mỗi vùng này cần tăng thêm tỷ lệ che phủ từ 4 - 5% vào năm 2025. Tỷ lệ che phủ của rừng Việt Nam năm 2019 là 41,89%, từ năm 2020 trở đi được duy trì ở mức ổn định là 42%. Đây là tỷ lệ khá cao (xấp xỉ bằng tỷ lệ che phủ của rừng năm 1943 là 43%), cao hơn mức bình quân của thế giới (29%).

Tuy nhiên, theo Tổng cục Lâm nghiệp, chỉ số diện tích rừng và trữ lượng gỗ bình quân đầu người ở Việt Nam lại thấp hơn nhiều so với bình quân của thế giới. Diện tích rừng bình quân của Việt Nam và thế giới lần lượt là: 0,14 ha/người và 0,97 ha/người (hơn 7 lần). Trữ lượng gỗ bình quân đầu người của Việt Nam và thế giới là 10 m3/người và 75 m3/người (hơn 7,5 lần). Cần nâng cao tỷ trọng về diện tích của rừng giàu, rừng trung bình, giảm diện tích rừng nghèo và nghèo kiệt trong thời gian tới.

Chuyển đổi mô hình tăng trưởng, phát triển lâm nghiệp bền vững

Ông Phạm Văn Điển, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp, Bộ NN-PTNT cho rằng, cần làm rõ nguồn lực, tiềm năng, lợi thế của lâm nghiệp Việt Nam để huy động vào việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng và phát triển lâm nghiệp bền vững.

“Trong các yếu tố vốn, lao động, tài nguyên và công nghệ, ngân sách nhà nước là có hạn, thời kỳ lao động và nhân công giá rẻ sắp qua đi, khả năng phục hồi và cung cấp của tài nguyên rừng cũng có giới hạn nhất định. Chỉ còn hai yếu tố có thể tăng tỷ trọng trong tương lai là nguồn lực từ doanh nghiệp và trong nhân dân, và từ khoa học - công nghệ.

Chính khoa học - công nghệ là động lực để phát triển theo chiều sâu, cùng với thể chế sẽ thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Năng lực đổi mới sáng tạo của Việt Nam có thứ hạng khá cao (42/129 nước), là một nguồn lực lớn và chúng ta cần tập trung hỗ trợ phát triển nó ở cấp độ doanh nghiệp”, ông Điển nêu quan điểm.

Mô hình trồng rừng gỗ lớn của Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Yên Thế, Bắc Giang. Ảnh: Dương Đại Tiến.


Lâm nghiệp phát triển sẽ làm giảm chi phí môi trường cho phát triển kinh tế quốc gia. Bởi, nói về hạ tầng cơ sở, người ta nghĩ đến việc rừng là cơ sở hạ tầng xanh, có vai trò quan trọng, là trụ đỡ cho phát triển bền vững ở nhiều vùng miền, đặc biệt là các vùng miền núi, thượng nguồn, vùng dân tộc thiểu số.

Dự kiến năm 2020 chúng ta thu được gần 3.000 tỷ đồng từ chi trả dịch vụ môi trường rừng. Đây là điểm sáng trong việc phát triển lâm nghiệp môi trường, xã hội hóa ngành lâm nghiệp và thực hiện giải pháp gia tăng giá trị từ rừng, góp phần tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và nâng cao hiệu quả bảo vệ rừng, góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện sinh kế cho người làm rừng.

Ông Điển cho rằng, trước một nền kinh tế mở, các hiệp định thương mại tự do, hội nhập sâu rộng cũng tạo lợi thế cho phát triển lâm nghiệp. Nhu cầu của thị trường gỗ thế giới ước khoảng 460 tỷ USD/năm. Nhu cầu lâm sản trong nước cũng lớn, khoảng 3 - 5 tỷ USD/năm. Chế biến và xuất khẩu lâm sản gắn với hội nhập là then chốt cho phát triển lâm nghiệp theo hướng có hiệu quả và tuân thủ trong giai đoạn tới.

Chúng ta cũng có lợi thế của nền lâm nghiệp nhiệt đới, với thế mạnh của lâm thổ sản và đặc sản. Sức hút của nghề rừng và của các chuỗi giá trị lâm sản ngày càng lớn đối với nhân dân, tư nhân, doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế, là một trong những ngành hàng xuất khẩu tỷ USD trọng điểm. Khả năng độc lập và cạnh tranh cao trên thị trường toàn cầu của ngành gỗ Việt Nam đã và đang trở thành thương hiệu lớn.

Tái cơ cấu ngành lâm nghiệp đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng: Tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc tăng từ 40,5% năm 2014 lên 41,85% năm 2019; năng suất, chất lượng, giá trị rừng trồng sản xuất gắn với cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững, sản lượng gỗ khai thác từ rừng trồng tập trung liên tục tăng, từ 12,8 triệu m3 năm 2015 lên 19,5 triệu m3 năm 2019 và dự kiến đạt 21,0 triệu m3 năm 2020, đáp ứng khoảng 80% nhu cầu nguyên liệu cho công nghiệp chế biến gỗ. Các mô hình kinh tế hợp tác, liên kết theo chuỗi sản phẩm, quản lý rừng bền vững trong lâm nghiệp được xây dựng; công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản phát triển. Giá trị xuất khẩu gỗ và lâm sản tăng từ 6,5 tỷ USD vào năm 2014 lên 11,31 tỷ USD năm 2019 và dự kiến năm 2020 đạt 12,5 tỷ USD.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về Gỗ trinh nam Trung Quốc – giá trị kinh tế cao

Cây Trinh nam (danh pháp khoa học: Phoebe zhennan; Trung văn gọi là nam mộc (楠木), nam thụ (楠樹/楠树), trinh nam (楨楠/桢楠)) là một loài thực vật thuộc họ Lauraceae. Đây là loài đặc hữu của Trung Quốc. Chúng hiện đang bị đe dọa mất môi trường sống. Nó được văn bản của phía Trung Quốc (văn bản tôi đang sử dụng là bia đá dựng vào những năm đầu thế kỉ 17) ghi là chữ Nam 楠. Chữ này có hai bộ phận: bộ mộc 木 chỉ cây, chữ nam 南 có ý chỉ là đến từ phương nam hay mọc ở phương nam. Phương nam ở đây là chỉ cả miền nam Trung Quốc ngày nay, nước Việt Nam, vùng Đông Nam Á rộng lớn. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-go-trinh-nam/ Sách Bản thảo cương mục cũng ghi nhận nó là cây của phương nam. Đây là loại cây cho gỗ chắc, thớ mịn, rất tuyệt cho các kiến trúc gỗ như đình, chùa, và dinh thự, vì kị mối mọt. Gỗ của cây trinh nam vốn rất đắt đỏ, chỉ có các hoàng đế Trung Hoa mới có khả năng sở hữu. Theo sử sách, gỗ trinh nam từng được dùng để xây dựng Tử Cấm Thành và để làm ngai vàng, đồ nội