Chuyển đến nội dung chính

Các ngân hàng phải chịu trách nhiệm về nạn phá rừng ở Đông Nam Á

 Các công ty gây rủi ro phá rừng ở Đông Nam Á có xu hướng gần như phụ thuộc hoàn toàn vào vốn vay. Theo quan điểm đòn bẩy, các ngân hàng có thể bị coi là đối tượng phải chịu trách nhiệm trực tiếp đối với hành vi phá rừng và các hành vi vi phạm liên quan do khách hàng gây ra.

Gần đây, các sáng kiến như Nhóm làm việc về minh bạch thông tin tài chính liên quan đến khí hậu (TCFD) và Nguyên tắc hoạt động ngân hàng có trách nhiệm (PRB) thu hút hàng trăm định chế tài chính khắp thế giới ký cam kết thực hiện các hoạt động cho vay phù hợp với các Mục tiêu phát triển bền vững và Thỏa thuận chung Paris, tuy nhiên, các nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu trên thực tế chưa tương xứng với tinh thần này.

Trong phạm trù bền vững, nhiên liệu hóa thạch và các giải pháp thay thế bằng năng lượng tái tạo thường được chú ý hơn trong khi phá rừng (cùng với bảo vệ và phục hồi rừng) gần như không được xem trọng nhiều dù đây là lĩnh vực đóng góp khí thải nhà kính lớn thứ hai sau ngành năng lượng.

Chỉ 12 ngân hàng ký kết Thỏa thuận hàng hóa mềm – sáng kiến nhằm mục đích không để mất rừng thông qua cấp vốn cho chuỗi cung ứng kể từ khi ra mắt vào năm 2010.

Ở Đông Nam Á, khu vực cùng với Trung Phi và Amazon được coi là điểm nóng của vấn nạn phá rừng trên thế giới, chỉ 9% các ngân hàng áp dụng chính sách Không phá rừng, Không than bùn, Không khai thác (NDPE) dưới nhiều hình thức khác nhau, theo nghiên cứu của WWF. Đáng chú ý là việc thực hiện các chính sách này còn chậm và chắp vá.

Rừng cọ dầu nhìn từ trên cao. (Ảnh: Creative Commons)

Những ngân hàng có mối quan hệ với các doanh nghiệp ngành lâm nghiệp (dầu cọ, bột giấy và giấy, cao su và gỗ) tiếp tục cấp vốn cho các công ty tài chính liên quan đến nạn phá rừng và nhiều vấn đề môi trường, xã hội và quản trị (ESG) như đốt rừng bất hợp pháp, xung đột quyền đất đai, tránh thuế và tham nhũng, dù biết điều đó vi phạm cam kết chính thức, chính sách của chính họ và ngó lơ áp lực quốc tế.

Báo cáo năm 2019 của Forest 500 cho thấy hơn 1/3 trong số 150 định chế tài chính không có chính sách nào về phá rừng nhưng trên thực tế, một vài ngân hàng thậm chí còn loại bỏ các thông tin công bố trước đó.

Tuy nhiên, các cam kết trên giấy không mấy có ý nghĩa nếu thiếu những thay đổi tích cực rõ ràng trong danh mục đầu tư của các nhà tài chính. Một trường hợp điển hình: theo Forest & Finance, từ năm 2017 đến tháng 8/2019, các ngân hàng Nhật Bản chiếm tỷ trọng lớn nhất (22%) trong việc cấp vốn mới cho các công ty có rủi ro gây phá rừng được giao dịch công khai với tổng trị giá 23,1 tỷ USD.

Trong cùng thời gian, các tập đoàn tài chính Mitsubishi UFJ, Mizuho và Sumitomo Mitsui – tất cả đều có các chính sách cụ thể về lĩnh vực lâm nghiệp – đã tài trợ cho một số công ty dính líu đến các vi phạm NDPE lớn ở Indonesia, bao gồm Sinar Mas Group, Royal Golden Eagle Group và Salim Group: 1,3 tỷ USD được chuyển cho các doanh nghiệp này chiếm 26% tổng tài trợ (5,1 tỷ USD) từ các ngân hàng Nhật Bản.

Về bản chất, bằng cách cho công ty có rủi ro phá rừng thể tiếp cận được với nguồn tài chính bất kể hồ sơ theo dõi ESG như thế nào, các ngân hàng đang duy trì và ngấm ngầm hợp pháp hóa việc khách hàng dính dáng vào phá rừng cũng như các hành vi bất hợp pháp liên quan.

Việc chấp thuận ngầm này khiến các ngân hàng có rủi ro thiệt hại nghiêm trọng về danh tiếng, đặc biệt là khi quyết định cho vay thực tế trái ngược với các cam kết đã nêu của họ trước đó.

Nhìn chung, rủi ro tài chính phát sinh do không tuân thủ các tiêu chuẩn bền vững ngày càng trở nên quan trọng hơn khi các sáng kiến quản lý và đa ngành về tài chính bền vững lan khắp toàn cầu.

Ở Đông Nam Á, các công ty lớn gây rủi ro phá rừng chủ yếu là những doanh nghiệp tư nhân theo hướng gia đình, phụ thuộc vào nợ để duy trì hoạt động. Các doanh nghiệp niêm yết đại chúng chủ yếu là các cổ phiếu vốn vừa và nhỏ, giao dịch ít với giá trị rất thấp. Ví dụ tại Bursa Malaysia, chỉ có 8/44 công ty trồng rừng niêm yết là có vốn hóa lớn.

Nhìn chung, các công ty gây rủi ro phá rừng duy trì mức vay nợ cao. Đối với các công ty hoạt động vi phạm chính sách NDPE, vay ngân hàng và bảo lãnh phát hành chứng khoán thường trở thành những kênh cấp vốn duy nhất.

BLD Plantations Berhad (BLD) là ví dụ. Tập đoàn dầu cọ Malaysia này không phải là thành viên của Hội nghị bàn tròn về Dầu cọ bền vững (RSPO) và là một trong những thủ phạm phá rừng hàng đầu trong khu vực.

Mặc dù là công ty giao dịch đại chúng, BLD rõ ràng không thu được giá trị đáng kể từ vốn chủ sở hữu. Vốn hóa chỉ đạt mức 132 triệu USD, công ty này thuộc sở hữu của ban giám đốc – những người gián tiếp nắm giữ hơn 90% cổ phần công ty; kết quả là khối lượng giao dịch không đáng kể.

Mọi hoạt động hàng ngày trông vào các khoản vay ngân hàng do số dư tiền mặt không đủ trả các khoản nợ ngắn hạn. Với tỷ lệ đòn bẩy tài chính trên 60%, công ty liên tục đảo nợ để duy trì hoạt động và đối phó với tỷ suất lợi nhuận âm.

Chừng nào các ngân hàng tiếp tục cho những thủ phạm phá rừng như BLD vay mà không liên quan đến hành vi phạm tội, các công ty gây rủi ro phá rừng sẽ thiếu động lực để nâng cao hiệu quả hoạt động ESG.

Mặt khác, nếu ngân hàng tiến hành kiểm tra tính bền vững thiết yếu, các công ty như BLD có thể bị phạt tiền ở mức cao hơn hoặc đối mặt với nguy cơ mất hoàn toàn các nguồn cấp vốn. Điều này sẽ buộc họ phải lo ngại do gần như phụ thuộc tuyệt đối vào các khoản vay ngân hàng.

Thời kỳ cháy rừng hàng năm ở Đông Nam Á lại đến. Tình trạng phá rừng năm ngoái lẽ ra phải là một lời cảnh tỉnh cho cộng đồng tài chính để thay đổi các hoạt động kinh doanh thông thường.

Các ngân hàng hiện đang thực sự tụt hậu trong quá trình chuyển đổi toàn cầu sang kinh tế bền vững. Ngân hàng rất ít khi hoặc không sử dụng các can thiệp tài chính thực tế, đặc biệt là về vấn đề phá rừng khiến những lời hứa đưa ra trở nên vô giá trị.

Do đó, các ngân hàng không hoàn thành trách nhiệm ủy thác cho nhiều bên liên quan, mặc dù thực tế là họ có đòn bẩy đáng kể đối với hầu hết các công ty gây rủi ro phá rừng nằm trong danh mục đầu tư. Có lý do để tin rằng các tiêu chí cho vay chặt chẽ hơn có thể thúc đẩy bên đi vay thay đổi tích cực hơn nhiều so với các sáng kiến thuần túy do nhà đầu tư dẫn dắt.

Thế Anh (Theo Eco Business)

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu