Chuyển đến nội dung chính

Ðồng hành cùng doanh nghiệp, người lao động vượt khó

Công ty TNHH sản xuất điện tử PCB Cát Tường (Bắc Ninh) quay lại sản xuất sau đại dịch Covid-19. Ảnh: THÁI SƠN

Bài 2: Cần những "cú huých" giúp doanh nghiệp thúc đẩy sản xuất

(Tiếp theo và hết) (*)

Nguồn tín dụng 16 nghìn tỷ đồng dự kiến được dành ra để người sử dụng lao động vay vốn trả lương ngừng việc cho người lao động (NLÐ). Tuy nhiên, đến hết tháng 6, báo cáo của Ngân hàng Chính sách xã hội và trên Cổng Dịch vụ công quốc gia cho thấy, chưa có một hồ sơ nào được giải ngân...

Khó khăn về thủ tục, điều kiện

Tại Ðồng Nai, đến thời điểm này, chưa có doanh nghiệp (DN) nào có thể tiếp cận được gói tín dụng chính sách 16 nghìn tỷ đồng dành cho DN vay không lãi suất thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội, vì quy định quá ngặt nghèo...

Nhiều tháng qua, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, Công ty TNHH sản xuất, thương mại Phương Sinh - một doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu gỗ quy mô lớn ở Ðồng Nai, gần như không có đơn đặt hàng, buộc phải cho NLÐ tạm ngưng việc. Giám đốc Công ty, Trịnh Thị Uyên Phương cho biết, DN vẫn trong tình trạng cầm cự, đợi qua giai đoạn khó khăn. Khi có thông tin về gói hỗ trợ vay không lãi suất, DN nhanh chóng cử người tìm hiểu, thế nhưng do nhiều tiêu chí quá ngặt nghèo, DN không thể tiếp cận được. "Hơn lúc nào hết, lúc này DN đang rất cần hỗ trợ từ các nguồn vay ưu đãi, nhưng những điều kiện đi kèm cần thông thoáng hơn. Chúng tôi mong cơ quan chức năng sớm điều chỉnh quy định để có thể tiếp cận được nguồn vốn vay ưu đãi, khôi phục sản xuất, kinh doanh", Giám đốc Trịnh Thị Uyên Phương chia sẻ.

Tương tự, một DN chuyên chế biến hạt điều xuất khẩu ở huyện Ðịnh Quán cho biết, một trong những tiêu chí để được vay vốn ưu đãi là DN có 20% số lao động phải ngừng việc, nhưng trong thời gian xảy ra dịch, đơn vị cố gắng bố trí công nhân làm việc luân phiên, giãn ca. Như vậy, nếu muốn vay để trả lương cho NLÐ, DN bắt buộc phải cho NLÐ ngừng việc với lý do ảnh hưởng của dịch. Do đó, các ngành chức năng cần điều chỉnh tiêu chí này cho phù hợp với thực tế...

Phó Chủ tịch Hiệp hội xuất, nhập khẩu Ðồng Nai, Nguyễn Ngọc Tuấn cho rằng, dịch Covid-19 ở nước ta đã cơ bản được khống chế, các DN trở lại sản xuất, kinh doanh. Do đó, việc nghiên cứu, sửa đổi Nghị quyết số 42 phù hợp hơn với điều kiện thực tế, giảm bớt thủ tục chứng minh tình hình tài chính của người sử dụng lao động, tăng cường minh bạch trong khâu thẩm định hồ sơ vay vốn. Ðó cũng là điều kiện để DN tiếp cận dễ dàng hơn các khoản hỗ trợ, sớm phục hồi sản xuất, kinh doanh.

Theo thống kê, hiện Ðồng Nai có khoảng 6.000 DN ảnh hưởng dịch Covid-19 thuộc diện được hỗ trợ. Ðến ngày 10-7, đã tiếp nhận 2.009 đơn đề nghị gia hạn nộp thuế và tiền thuế đất; cơ quan Bảo hiểm xã hội (BHXH) xác nhận 113 đơn vị sử dụng 6.291 lao động tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không lương... Chủ tịch UBND tỉnh Ðồng Nai Cao Tiến Dũng cho biết, địa phương đang tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp hỗ trợ DN nhằm tháo gỡ khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, như: hỗ trợ chính sách tín dụng, lao động, BHXH và nhất là chính sách về thuế. Ngoài ra, đẩy mạnh hỗ trợ thông tin nguồn cung nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất, cũng như nhu cầu đầu ra sản phẩm cho các ngành hàng, nhất là mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của Ðồng Nai. Từ đó, khôi phục sản xuất, sớm đưa các DN đi vào hoạt động ổn định trong những tháng cuối năm 2020...

Nhu cầu vay lớn

Tại tỉnh Bắc Ninh, địa bàn trọng điểm có nhiều khu công nghiệp ở khu vực các tỉnh phía bắc, ông Phạm Tiến Dũng, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty TNHH sản xuất điện tử PCB Cát Tường cho biết: Sản phẩm đầu vào của ngành sản xuất điện tử phần lớn nhập khẩu từ các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc. "Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, nguồn cung ứng nguyên liệu bị gián đoạn, khiến công ty luôn trong tâm thế thấp thỏm, lo lắng". Ông nói thêm, từ năm 2019, công ty đã nhận một số đơn đặt hàng lớn từ đối tác. Tuy nhiên, dịch Covid-19 xuất hiện và lan rộng làm đảo lộn các kế hoạch từ sản xuất đến kinh doanh, khiến công ty đối mặt nhiều khó khăn. Ðể giữ chân người lao động, công ty buộc phải lấy nguồn vốn dự trữ để trả lương công nhân. Ðây là việc làm cần thiết để ổn định tâm lý cho người lao động, giúp họ yên tâm sản xuất, gắn bó với công ty.

Khi được hỏi về gói hỗ trợ từ Nghị quyết 42, ông Dũng cho biết, công ty chưa nắm được thông tin có gói tín dụng để hỗ trợ trả lương cho NLÐ trong thời gian cao điểm chống dịch Covid-19. Nếu như biết có gói hỗ trợ này công ty sẽ nghiên cứu các điều khoản, điều kiện để được vay. Ông chia sẻ: Thời điểm khó khăn này mà tiếp cận được các nguồn vốn vay thì rất tốt.

Mặc dù các công ty trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh gặp nhiều khó khăn nhưng hiện nay gói hỗ trợ 16 nghìn tỷ đồng từ Nghị quyết 42 vẫn chưa được phân bổ xuống địa phương. Phó Giám đốc Ngân hàng Chính sách xã hội, chi nhánh Bắc Ninh, Lê Thị Hiển cho biết, triển khai thực hiện Nghị quyết 42, cùng với hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội chi nhánh Bắc Ninh phối hợp các cơ quan chức năng tỉnh khảo sát nhu cầu của các DN về vốn vay hỗ trợ giúp các DN, báo cáo UBND tỉnh Bắc Ninh và Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam. Ðồng thời chuẩn bị về thủ tục, quy trình để triển khai cho vay. Tuy nhiên, đến thời điểm này, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh chưa có DN đến liên hệ, trao đổi về việc có nhu cầu vay gói này. Lý giải tình trạng trên, Phó Giám đốc Lê Thị Hiển khẳng định, qua công tác khảo sát, nắm bắt tình hình, phần lớn các DN có nhu cầu và quan tâm gói vay khôi phục, phát triển kinh tế. Gói hỗ trợ từ Nghị quyết 42 chỉ giải ngân được với mục đích trả lương NLÐ. Trong khi đó, hầu hết các DN trên địa bàn tỉnh đã có sự thỏa thuận trả lương cho công nhân lao động ở mức hợp lý, phù hợp ngày công lao động của công nhân trong thời gian ảnh hưởng dịch Covid-19.

Rà soát, sửa đổi chính sách phù hợp

Trước thực tế vướng mắc này, Bộ LÐ-TB và XH đã báo cáo Chính phủ và đề xuất nội dung sửa đổi Nghị quyết 42, trong đó, một số chính sách hỗ trợ cần thiết cần được sửa đổi, bổ sung nhằm tạo thuận lợi hơn nữa cho DN và NLÐ dễ dàng hơn trong việc tiếp cận chính sách và đơn giản hóa thủ tục hành chính trong quá trình xác lập hồ sơ.

Theo đó, tại khoản 1, mục II, đối với nhóm NLÐ tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không lương tại DN, bổ sung nội dung: "Thời điểm bắt đầu tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương được tính từ ngày 23-1-2020 đến ngày 1-6-2020". Vì trong thực tế có các trường hợp NLÐ đã thực hiện tạm hoãn hợp đồng lao động từ trước ngày 1-4-2020. Quy định như trên nhằm tránh bỏ sót đối tượng trong quá trình tổ chức thực hiện (thí dụ, NLÐ tạm hoãn hợp đồng lao động từ tháng 2-2020 đến tháng 5-2020), việc hỗ trợ NLÐ vẫn thực hiện tính từ ngày 1-4-2020 và không quá ba tháng.

Cụ thể sửa đổi khoản này như sau: "NLÐ làm việc theo chế độ hợp đồng lao động phải thỏa thuận tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương từ một tháng trở lên do người sử dụng lao động gặp khó khăn bởi dịch Covid-19, có doanh thu quý I năm 2020 giảm 20% trở lên so với quý IV năm 2019 hoặc so cùng kỳ năm 2019 thì được hỗ trợ với mức 1,8 triệu đồng/người/tháng. Thời gian hỗ trợ theo thời gian thực tế tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không lương, theo hằng tháng tùy theo tình hình thực tế của diễn biến dịch, tính từ ngày 1-4-2020 và không quá ba tháng. Thời điểm bắt đầu tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương được tính từ ngày 23-1-2020 đến ngày 1-6-2020"...

Ðể tháo gỡ những vướng mắc này, trong đề xuất nội dung sửa đổi Nghị quyết 42, Bộ LÐ-TB và XH nêu rõ, tại khoản 1, mục II, đề nghị cần thay từ "doanh nghiệp" bằng từ "người sử dụng lao động" để có thể mở rộng đối tượng thụ hưởng tới các chủ thể khác ngoài DN như trường học, tổ chức, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, hộ kinh doanh, cá nhân có sử dụng lao động; Sửa cụm từ "không có doanh thu hoặc không có nguồn tài chính để trả lương" thành "doanh thu quý I-2020 giảm 20% trở lên so quý IV-2019 hoặc so cùng kỳ năm 2019" để người sử dụng lao động tiếp cận tốt với chính sách hỗ trợ của Nhà nước.

Bộ LÐ-TB và XH cũng đề nghị lược bỏ nội dung "để trả phần lương còn lại và giải ngân trực tiếp hằng tháng đến người bị ngừng việc" bởi trong thực tiễn quy định này làm phát sinh thủ tục trong quá trình giải ngân của ngân hàng, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho DN trong việc linh hoạt các nguồn kinh phí để trả lương ngừng việc nhằm giữ chân NLÐ. Thay vào đó, cụ thể sửa đổi khoản này như sau: "Người sử dụng lao động có doanh thu quý I-2020 giảm 20% trở lên so với quý IV-2019 hoặc doanh thu tại thời điểm xét hưởng giảm 20% so cùng kỳ năm 2019 thì được vay không có tài sản bảo đảm tối đa 50% tiền lương tối thiểu vùng đối với từng người lao động ngừng việc trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 12-2020 theo thời gian trả lương thực tế nhưng không quá sáu tháng với lãi suất 0%, thời hạn vay tối đa 12 tháng tại Ngân hàng Chính sách xã hội".

Trong bối cảnh dịch Covid-19 trên thế giới còn diễn biến phức tạp, bên cạnh nỗ lực, quyết tâm, các DN trong nước đã và đang thực hiện tối ưu hóa các nguồn lực, việc các cơ quan nhà nước tiếp tục khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi Nghị quyết 42 theo hướng phù hợp hơn với điều kiện thực tế hiện nay là rất cần thiết. Những vướng mắc vừa qua cho thấy, yêu cầu sắp tới cần giảm bớt thủ tục chứng minh tình hình tài chính của người sử dụng lao động, giúp người sử dụng lao động tiếp cận tốt hơn nguồn vốn tín dụng, từ đó hỗ trợ người sử dụng lao động vay vốn trả lương ngừng việc cho NLÐ, giúp NLÐ giảm bớt khó khăn, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, giúp người sử dụng lao động nhanh chóng phục hồi, ổn định nhịp sản xuất.

Trao đổi với phóng viên Báo Nhân Dân, TS Bùi Sỹ Lợi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội của QH nhấn mạnh tính cấp thiết của việc sửa đổi Nghị quyết 42 và một số văn bản quy phạm pháp luật về hỗ trợ với đối tượng DN, NLÐ. Sự điều chỉnh mặc dù chậm, nhưng thể hiện quyết tâm của Chính phủ tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho DN và NLÐ để khắc phục khó khăn, vượt qua tác động của dịch Covid-19.

Việc điều chỉnh hạ các tiêu chí, điều kiện thực chất là mở rộng đối tượng của tất cả cơ sở sản xuất, kinh doanh (người sử dụng lao động), không kể quy mô và giảm các điều kiện về mức suy giảm doanh thu, nhất là kéo dài thêm thời gian tối đa 12 tháng. Ðiều này sẽ tạo cơ hội cho chủ sử dụng lao động, nhất là cơ sở kinh doanh chưa được điều chỉnh trước đây khắc phục khó khăn, giữ chân NLÐ để khi phát triển sản xuất không phải tuyển mới và đào tạo nghề nghiệp.

Tuy nhiên, theo TS Bùi Sỹ Lợi, bên cạnh việc sửa đổi chính sách, việc tổ chức triển khai thực hiện rất quan trọng và mang tính quyết định. Phải tuyên truyền, phổ biến đến tất cả người sử dụng lao động và NLÐ để nắm được chủ trương, chính sách về mở rộng đối tượng và điều chỉnh tiêu chí được hưởng ưu đãi, để họ kê khai thực hiện. Cơ quan chức năng cần khẩn trương rà soát, tổng hợp, lập danh sách, công khai các điều kiện, tiêu chí theo quy định để báo cáo và thông báo công khai. Quá trình tổ chức thực hiện phải kiểm tra, theo dõi sát sao để bảo đảm tiến độ; trường hợp thực hiện chưa đúng phải chấn chỉnh kịp thời và xử lý nghiêm.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu