Chuyển đến nội dung chính

Dịch “chết héo”: Nguy cơ đe dọa nguồn nguyên liệu gỗ

Bệnh “chết héo” trên các loài cây, đặc biệt là cây keo đã bùng phát trở thành đại dịch tại nhiều quốc gia trên thế giới như Indonesia, Malaysia… Tại Việt Nam tuy thiệt hại chưa đáng kể nhưng nếu chủ quan với dịch, thiệt hại cho xuất khẩu gỗ sẽ rất lớn.

Ông Phạm Văn Điển, Phó Tổng cục trưởng Tổng Lâm nghiệp.

Theo ông Phạm Văn Điển, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT) đánh giá, Việt Nam ít xác suất bùng phát bệnh “chết héo” trên cây keo thành dịch trên quy mô lớn, song cũng không thể lơ là bởi nếu để dịch bùng phát sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới nguồn gỗ nguyên liệu phục vụ chế biến, xuất khẩu.

Bệnh “chết héo” trên các loài cây, đặc biệt là cây keo đã bùng phát trở thành đại dịch tại nhiều quốc gia trên thế giới như Indonesia, Malaysia… gây ra hậu quả khôn lường. Ông có thể chia sẻ rõ hơn về mức độ thiệt hại mà căn bệnh này gây ra?

Ông Phạm Văn Điển: Bệnh “chết héo” trên cây không chỉ xảy ra trên cây keo mà xuất hiện với các loài cây khác nhau. Bệnh này ghi nhận lần đầu tiên năm 1900, gây bệnh nghiêm trọng với cây cà phê ở đảo Java (Indonesia).

Từ trước đến nay, bệnh này đã xuất hiện ở cả 5 châu lục trên nhiều loại cây, kể cả giống cây nội địa cũng như cây nhập nội. Ví dụ, bệnh xuất hiện trên cây bạch đàn hay cây keo tại Australia đều là giống cây bản địa của Australia; cây sồi hay cây dẻ là cây bản địa của châu Âu.

Về mặt thiệt hại, tại Indonesia, từ năm 2010 đến năm 2017, bệnh này gây chết khoảng 1 triệu ha rừng. Tại Malaysia từ năm 2015 đến năm 2017, 2018, con số thiệt hại là khoảng 300.000 ha. Nếu như năm 2009, Indonesia có 1,6 triệu ha rừng keo thì đến nay con số này chỉ còn lại 0,6 triệu ha. Đáng chú ý, diện tích keo bị chết tại Indonesia, Malaysia… sau khi được trồng lại bằng cây mới là bạch đàn thì đến nay cũng đã bị nhiễm bệnh.

Tình hình bệnh “chết héo” trên cây keo diễn biến cụ thể ở Việt Nam như thế nào, thưa ông?

Ông Phạm Văn Điển: Ở Việt Nam, bệnh này phát hiện năm 2008 trên cây keo tai tượng. Việt Nam có 4 loài keo là keo tai tượng, keo lá tràm, keo lá liềm và keo lai giữa keo tai tượng và keo lá tràm. Hiện nay, trừ loài keo lá liềm, bệnh phát hiện có nhiễm chủ yếu trên 3 loài còn lại. Một số rừng keo tai tượng, keo lá tràm và keo lai đã bị chết bởi bệnh này.

Cũng phải nói thêm rằng, năm 2008 Việt Nam phát hiện bệnh “chết héo” trên cây keo, song khi đó chưa xuất hiện cây chết. Đến năm 2015, có 2.000 ha rừng keo bị nhiễm. Bị nhiễm là bệnh mới ở giai đoạn đầu, còn bị bệnh là mức độ bị hại cao hơn. Tỉ lệ cây bị bệnh trong tổng số 2.000 ha là dưới 15%. Có những chỗ, tỉ lệ cây bị bệnh cao hơn là khoảng 30-40%.

Năm 2015, diện tích keo mắc bệnh bị chết khoảng 100 ha, phân bố rải rác tại nhiều địa phương. Tại thời điểm đó, bệnh “chết héo” trên keo được phát hiện ở 17 tỉnh trên cả nước. Đến nay, bệnh này đã lây lan ra 21 tỉnh trên cả nước, song diện tích không tăng so với năm 2015, nghĩa là vẫn khoảng 2.000 ha. Bệnh gây chết rải rác ở các tỉnh Tuyên Quang, Yên Bái… với tổng số trên 90 ha.

Nếu đặt trường hợp bệnh này bùng phát trở thành dịch như câu chuyện tại Indonesia hay Malaysia sẽ gây ra những ảnh hưởng như thế nào tới ngành chế biến, xuất khẩu gỗ của Việt Nam, thưa ông?

Ông Phạm Văn Điển: “Chết héo” là bệnh nguy hiểm, nếu bùng phát thành dịch sẽ gây tổn hại khá lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng tới nguồn cung nguyên liệu cho chế biến, xuất khẩu gỗ.

Hiện nay, Việt Nam có diện tích keo nhiều. Rừng keo thuộc diện rừng sản xuất để cung cấp gỗ cho chế biến, xuất khẩu gỗ khoảng 1,6 triệu ha. Ngoài ra, Việt Nam còn có khoảng 300.000-400.000 ha rừng keo khác như loại rừng đặc dụng. Tổng số diện tích keo của Việt Nam là 2 triệu ha.

Ở góc độ xuất khẩu, trong tổng số nguồn cung gỗ nguyên liệu cho chế biến, xuất khẩu gỗ, keo chiếm tỉ lệ trên 50%; 26% là từ gỗ cao su, gỗ cây phân tán… và khoảng 24% là từ nguồn gỗ nhập khẩu.

Nhận định của các nhà khoa học Việt Nam cũng như của Tổng cục Lâm nghiệp, của các viện, trường, Việt Nam rất ít xác suất bùng phát bệnh “chết héo” thành dịch trên quy mô lớn. Tuy nhiên, bệnh này không thể chủ quan bởi dù bệnh có gây chết 100 ha hay 200 ha rừng phân bố rải rác trên toàn quốc thì cũng là gây thiệt hại đáng kể.

Ngăn chặn bệnh này để hướng tới quản lý rừng trồng bền vững, tiến tới cấp chứng chỉ rừng, ổn định lâu dài bảo vệ sản xuất, xuất khẩu. Xét cho tới cùng, một trong những điểm bảo vệ xuất khẩu chính là phải gắn liền bảo vệ khâu nguyên liệu.

Việt Nam đang tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu trong nhiều lĩnh vực. Nếu thiếu nguyên liệu, khó khăn về nguyên liệu đương nhiên Việt Nam sẽ không bị loại ngay ra khỏi chuỗi, song chắc chắn dẫn tới gián đoạn trong việc tham gia vào chuỗi.

Xin ông cho biết, thời gian tới, ngành lâm nghiệp sẽ triển khai những giải pháp cụ thể, quyết liệt ra sao để kiểm soát tốt bệnh “chết héo” trên cây keo, tránh để bùng phát thành dịch?

Ông Phạm Văn Điển: Một quy trình tạm thời để phòng chống bệnh “chết héo” ở keo sẽ được ban hành trong quý III tới. Quy trình tạm thời là quy trình tổng hợp từ khâu chọn giống tốt, không bị nhiễm bệnh để trồng đến xử lý đất để đảm bảo triệt tiêu mầm bệnh, rồi đến kỹ thuật trồng, chăm sóc nuôi dưỡng bảo vệ rừng…

Bên cạnh đó, Tổng cục Lâm nghiệp cũng khuyến cáo các địa phương, doanh nghiệp, chủ rừng.. chủ động phòng chống bệnh này. Cụ thể khuyến cáo như, phân biệt ra trồng chỗ rừng đã bị dịch phải xử lý khoanh vùng, phát hiện, chặt bỏ theo hướng dẫn; khuyến cáo trong khâu xử lý thực bì và đất…

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, phải phòng xa khi tỉ lệ số cây bị bệnh còn thấp, thường là dưới 15% tổng số cây bị nhiễm thì sẽ xử lý được. Nếu để số cây bị bệnh vượt qua 15%, ví dụ lên mức 30-45% với cấp độ bị hại tăng lên cấp 3, cấp 4 (bệnh có 4 cấp độ-PV), việc chữa trị sẽ rất tốn kém, khó xử lý…

Xin cảm ơn ông!

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu