Chuyển đến nội dung chính

Cháy rừng mùa khô - Đừng để 'đến hẹn lại lên'

Như một “quy luật khắc nghiệt”, cứ vào mùa khô, từ tháng 5 đến hết tháng 7, nạn cháy rừng lại diễn ra, liên tiếp hết điểm này đến điểm khác, đặc biệt là ở miền Trung.

Lời cảnh báo của các nhà khoa học đã được đưa ra từ rất lâu: Nguy cơ cháy rừng ở Bắc Trung Bộ năm 2020 sẽ tăng từ 6-40% so với năm 2000. Nhưng điều này hiện tại chưa giúp cho việc ngăn ngừa, giảm thiểu thiệt hại.

Yếu tố con người - xã hội là then chốt

Từ ngày 26/6 đến 1/7/2019, các vụ cháy rừng lớn đã liên tiếp xảy ra ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. Riêng tại tỉnh Hà Tĩnh có hàng trăm điểm cháy ở 7 huyện.

Chú thích ảnh

Ngày 29/6/2020, tại Diễn Châu, Nghệ An xảy ra hai vụ cháy rừng liên tiếp. Ảnh: TTXVN phát

Năm nay, vào ngày 26/6 lại xảy ra vụ cháy rừng lớn ở xã Sơn Thành (huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An). Tiếp đó, tối 29/6, đám cháy rừng khởi phát từ địa phận xã Ân Phú (huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh) rồi lan sang địa phận xã Sơn Long và xã Sơn Trà nằm trên dãy núi Mồng Gà của huyện Hương Sơn. Đến rạng sáng 1/7, các đám cháy rừng ở Hà Tĩnh mới cơ bản được dập tắt.

Nguyên nhân khách quan được cho là do thời tiết - nắng nóng liên tục với nhiệt độ có nơi lên tới 43 độ C ở khu vực ven biển miền Trung trong suốt 12 ngày cuối tháng 6. Nhiệt độ cao kết hợp với độ ẩm dưới 30% khiến cho các cánh rừng dễ dàng bắt lửa và một khi đã xảy ra cháy thì rất khó dập tắt.

Bên cạnh thời tiết thì các yếu tố tự nhiên khác cũng khiến cho Nghệ An, Hà Tĩnh nói riêng, các tỉnh miền Trung nói chung khó chống chọi với “giặc lửa”. Chất lượng rừng nằm trong các yếu tố này. Chất lượng rừng ở Việt Nam, đặc biệt là tại miền Trung, có xu hướng đi xuống trong khi diện tích rừng tăng lên vào những năm gần đây. Chất lượng rừng kém được thể hiện ở các con số: Rừng thứ sinh nghèo kiệt chiếm xấp xỉ 70% trong khi rừng nguyên sinh chỉ vỏn vẹn gần 7%. Rừng thứ sinh được coi là dễ “nhạy cảm” với lửa hơn rừng nguyên sinh vì nó tạo ra loại thực bì đặc biệt dễ bén lửa trong vùng tiểu khí hậu khô, nóng của miền Trung.

Rừng thông, rừng tràm, rừng tre nứa, rừng bạch đàn, rừng khộp, rừng non khoanh nuôi tái sinh tự nhiên và rừng đặc sản... thuộc loại dễ cháy. Loại rừng này lên đến gần 6 triệu ha, phổ biến ở miền Trung.

Yếu tố con người và hoạt động sản xuất, phòng - chống cháy đóng vai trò hết sức quan trọng, có thể nói là then chốt, trong cuộc chiến với “giặc lửa”.

Đồng bào ở miền núi có thói quen đốt rừng làm nương rẫy, ở miền xuôi thì bà con thường đốt rơm rạ, đốt quang thực bì để thu nhặt kim loại, đốt rác trong vườn cạnh khu rừng trồng, hun khói để lấy mật ong...

Vụ cháy rừng nghiêm trọng vào cuối tháng 6/2019 ở Hà Tĩnh là do sự bất cẩn của con người. Công an huyện Nghi Xuân ngày 1/7/2019 đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và lệnh bắt tạm giam đối với Phan Đình Thành (sinh năm 1973, trú tại xã Xuân Hồng, huyện Nghi Xuân) về tội “Vi phạm các quy định về phòng cháy, chữa cháy” theo Điều 313 - Bộ luật Hình sự. Ông này là thủ phạm gây ra vụ cháy rừng kéo dài từ ngày 28 đến 30/6 tại núi Hồng Lĩnh thuộc địa bàn thị trấn Xuân An và xã Xuân Hồng (huyện Nghi Xuân). Ông Thành khai nhận, trưa 28/6, ông đốt rác ở góc vườn, gió to làm tàn lửa bay xa, gây cháy rừng.

Về nguyên nhân các vụ cháy rừng năm nay ở huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh), ông Nguyễn Văn Bằng, Chủ tịch UBND xã Sơn Trà, nhận định là do người dân thắp hương ở nghĩa trang rồi lửa bén lan lên rừng.

Còn tại Nghệ An, Chi cục Kiểm lâm tỉnh cho biết: Vụ cháy rừng ở xã Sơn Thành (huyện Yên Thành) xảy ra ngày 26/6/2020 là do có người đốt với mục đích phá hoại. Hiện cơ quan điều tra đang xác minh, làm rõ vụ việc.

Ở địa phương này từ đầu năm 2020 đến nay đã xảy ra 9 vụ cháy rừng, trong đó 4 vụ được xác định do con người cố ý đốt rừng, hủy hoại tài nguyên rừng.

Bên cạnh đó, việc phòng, chống cháy rừng bị chi phối mạnh mẽ từ việc điều hành, quản lý của các cấp liên quan.

Công tác phòng cháy, chữa cháy rừng đã có hệ thống văn bản chỉ đạo, điều hành được củng cố và hoàn thiện tới cấp xã. Song trên thực tế, việc kiểm soát cháy rừng và hiệu quả chữa cháy rừng chưa cao là do thiếu hệ thống quản lý chặt chẽ từ Trung ương xuống cơ sở về lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy rừng; việc chỉ đạo, điều hành chậm do không nắm bắt được thông tin kịp thời, chính xác, thiếu phương tiện, trang thiết bị chỉ đạo, chỉ huy; thiếu lực lượng chữa cháy rừng chuyên trách…

Kinh phí đầu tư cho việc phòng, chống cháy rừng rất hạn chế; phương tiện, trang thiết bị vừa thô sơ, lạc hậu, vừa thiếu, chỉ có một số máy bơm công suất nhỏ và chủ yếu là dụng cụ chữa cháy thủ công như cuốc, xẻng, dao phát… Chế độ đãi ngộ với lực lượng tham gia chữa cháy chưa cụ thể, rõ ràng nên chưa động viên, khuyến khích mọi lực lượng tham gia công tác phòng cháy, chữa cháy rừng một cách chủ động và tích cực.

Nghệ An có gần 30.000 ha rừng thông, rừng hỗn hợp. Trước khi bước vào mùa nắng nóng, việc phát dọn thực bì để hạn chế nguy cơ xảy ra cháy mới chỉ được tiến hành tại 1/3 diện tích do chủ rừng thiếu kinh phí. Đó là nguyên do rất dễ bùng phát các đám cháy rừng và lửa lan rộng trong điều kiện nắng nóng gay gắt.

Bài học ở Lai Châu, Sơn La

Theo Ban Chỉ đạo chương trình hành động thích ứng với biến đổi khí hậu ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong mấy thập kỷ qua, trung bình mỗi năm Việt Nam mất đi hàng chục nghìn héc ta rừng, riêng mất rừng do hỏa hoạn là khoảng 16.000 ha/năm.

Thiệt hại vật chất được ước tính là nhiều trăm tỷ đồng/năm. Đó là chưa kể đến những ảnh hưởng xấu về môi trường sống cùng những thiệt hại chưa được định lượng do tăng lũ lụt ở vùng hạ lưu, làm giảm tính đa dạng sinh học, phá vỡ cảnh quan; tác động xấu đến an ninh - quốc phòng...

Theo phóng viên TTXVN tại Lai Châu, địa phương này đang làm tốt nhiệm vụ chủ động ngăn chặn và kiểm soát “giặc lửa”.

Chi cục Kiểm lâm tỉnh Lai Châu cho biết tỉnh đang sở hữu 461.653 ha rừng, trong đó có 429.221 ha rừng tự nhiên, 19.396 ha rừng trồng… Diện tích đất có rừng tập trung chủ yếu ở những địa hình hiểm trở, bị chia cắt mạnh, độ dốc lớn, xa khu dân cư, nguồn vật liệu cháy tích tụ trong rừng rất dễ bắt lửa và khi cháy lan rất nhanh.

UBND tỉnh Lai Châu đã chỉ đạo các cơ quan kiểm lâm, công an, quân đội và các lực lượng liên quan lập kế hoạch chi tiết trong việc quản lý, bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng; chuẩn bị lực lượng, vật tư trang thiết bị, hậu cần thường trực sẵn sàng ứng phó, xử lý các tình huống cấp bách nếu có cháy rừng xảy ra.

Đối với các huyện có nguy cơ xảy ra cháy rừng cao, cấp ủy và chính quyền tăng cường quản lý các hoạt động canh tác nương rẫy, có quy định cụ thể về khu vực cấm đốt nương làm rẫy và hành vi dùng lửa trái quy định; hướng dẫn, kiểm tra, quản lý chặt chẽ và tổ chức cho nhân dân ký cam kết thực hiện quy định bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng.

Mường Tè là huyện có diện tích rừng lớn nhất tỉnh Lai Châu. Từ đầu mùa khô huyện đã chú trọng thực hiện tốt phương châm “4 tại chỗ” và thành lập 126 tổ chuyên trách bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng ở các bản. UBND huyện đã phân vùng trọng điểm và bố trí lực lượng thường xuyên tuần tra, giám sát công tác phòng cháy, chữa cháy rừng. Nhờ đó, toàn bộ hơn 167.572 ha rừng của huyện Mường Tè luôn được bảo vệ tốt, vài năm gần đây không có vụ cháy rừng lớn nào xảy ra; tỷ lệ che phủ rừng đạt 64,79%.

Xã Bum Nưa nằm gần trung tâm huyện Mường Tè nhưng không vì thế mà công tác quản lý bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng bị buông lỏng. Bà Vàng Thị Thánh, Chủ tịch UBND xã Bum Nưa, cho biết: Trong những năm qua, xã Bum Nưa đã đẩy mạnh công tác quản lý, bảo vệ và phòng cháy, chữa cháy rừng, thường xuyên tuyên truyền đến các bản về việc chống giặc lửa. Từ đó, trên địa bàn xã không có vụ cháy rừng nào xảy ra, hơn 4.000 ha  rừng được bảo vệ nghiêm ngặt.

Mặt khác, tỉnh Lai Châu kéo giảm rõ rệt các vụ cháy rừng nhờ dịch vụ môi trường rừng.

Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Lai Châu đã đi vào hoạt động được 10 năm (từ năm 2010), đóng góp tích cực vào công tác bảo vệ, phát triển rừng trên địa bàn.

Các bản tham gia nhận khoán bảo vệ rừng đã thành lập các tổ chuyên trách, ban hành quy chế hoạt động, phân phối thu nhập từ nguồn dịch vụ môi trường rừng. Tổ chuyên trách thường xuyên tuần tra bảo vệ rừng, đặc biệt trong mùa khô với các dụng cụ như dao phát, quần áo bảo hộ… Các dụng cụ phòng, chống cháy rừng được mua bằng tiền trích từ nguồn thu dịch vụ môi trường rừng. Có nơi bà con còn làm đường tuần tra tại điểm có nguy cơ xảy ra cháy rừng cao, phát đường băng trắng cản lửa phòng cháy, lập chốt gác bảo vệ rừng.

Kết quả, số vụ phá rừng, đốt rừng, diện tích cháy và số vụ vi phạm Luật Bảo vệ và phát triển rừng giảm đáng kể, không có tụ điểm lớn về phá rừng, kinh doanh lâm sản trái phép. Tình trạng di cư tự do giảm, diện tích rừng đã được nâng lên (độ che phủ rừng của tỉnh từ 41,6% năm 2011 lên 48,16% năm 2017) góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, giảm nhẹ thiên tai, đa dạng sinh học nâng lên, giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Tỉnh Sơn La áp dụng chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng sớm hơn, bắt đầu từ năm 2009. Địa phương này có 537.000 ha trong tổng số 637.018 ha rừng được bảo vệ và phát triển từ nguồn dịch vụ môi trường rừng; chất lượng rừng, môi trường sinh thái từng bước được cải thiện.

Theo phóng viên TTXVN tại Sơn La, số vụ cháy rừng, vi phạm các quy định về quản lý, bảo vệ rừng, quản lý lâm sản giảm sâu về cả 3 tiêu chí (số lượng vụ việc, diện tích và số lâm sản bị thiệt hại) - năm 2018 giảm trên 960 vụ so với năm 2009.

Rút kinh nghiệm từ việc để xảy ra các vụ cháy rừng trong mùa khô năm 2019, năm nay tỉnh Sơn La nỗ lực bảo vệ tốt diện tích rừng hiện có. Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Sơn La Lò Thế Thi cho biết: Mùa khô năm 2020, phương châm được lực lượng kiểm lâm đặt ra là: “Phòng là chính, chữa cháy kịp thời, bảo vệ an toàn rừng”.

Trần Quang Vinh (TTXVN)

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu