Chuyển đến nội dung chính

Không thể ''biến'' đất rừng giao khoán thành đất tư nhân

Giao khoán đất rừng là một trong những chính sách về đất đai nhằm mục tiêu đảm bảo sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên đất và mặt nước; sử dụng tốt nguồn vốn, lao động của bên nhận khoán, đảm bảo lợi ích hài hòa của bên nhận khoán, bên giao khoán và Nhà nước, góp phần vào mục tiêu xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế và bảo vệ rừng.

Cán bộ quản lý Phân trường Gia Phu (thuộc Ban Quản lý rừng phòng hộ Xuân Lộc) thường xuyên thăm hỏi, động viên người dân nhận khoán đất rừng yên tâm lao động, sản xuất. Ảnh: Hải Đình
Cán bộ quản lý Phân trường Gia Phu (thuộc Ban Quản lý rừng phòng hộ Xuân Lộc) thường xuyên thăm hỏi, động viên người dân nhận khoán đất rừng yên tâm lao động, sản xuất. Ảnh: Hải Đình

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chính sách giao khoán đất rừng phòng hộ H.Xuân Lộc, một số hộ dân không chấp hành đúng quy định, muốn “biến”  đất của Nhà nước thành đất riêng của mình.

* Hài hòa các lợi ích phát triển

Lâm trường Xuân Lộc (nay được đổi tên thành rừng phòng hộ Xuân Lộc) được thành lập từ tháng 12-1977 với diện tích rừng và đất rừng được giao quản lý và tổ chức kinh doanh là hơn 18 ngàn ha thuộc địa bàn các xã: Xuân Tâm, Xuân Hưng, Xuân Hòa, Xuân Thành, Xuân Trường (H.Xuân Lộc).

Thời gian đầu quản lý, Lâm trường Xuân Lộc gặp rất nhiều khó khăn do nạn lâm tặc chặt phá cây rừng cũng như người dân tự ý xâm canh để làm rẫy. Đặc biệt, vào thời điểm 1985-1986, một số người dân từ nơi khác đến khai hoang làm rẫy trên phần đất rừng thuộc Phân trường 5 (nay đổi tên thành Phân trường Núi Le) thì bị lực lượng bảo vệ lâm trường phát hiện, ngăn chặn. Không dừng lại ở đó, họ đi sâu vào Phân trường Trảng Táo tiếp tục chặt phá cây rừng để dựng lều, trồng tỉa cây hoa màu.

Ông Hoàng Đình Long, Giám đốc Ban Quản lý rừng phòng hộ Xuân Lộc cũng cho biết, ngoài việc tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi về các chế độ, chính sách cho người dân nhận khoán đất rừng để làm ăn, làm giàu, hiện nay, H.Xuân Lộc cũng đã có chủ trương quy hoạch khu dân cư tập trung có diện tích khoảng 20ha cho các hộ dân sinh sống, canh tác trong đất lâm phận nhưng chưa có đất xây dựng nhà ở.

Để giải quyết tình hình phức tạp đó, năm 1987, Lâm trường Xuân Lộc đã thực hiện hợp đồng liên kết trồng rừng với một số hộ dân có tên gọi là hợp đồng liên kết trồng cà phê, hồ tiêu dưới tán cây gỗ lớn. Việc này căn cứ theo Quyết định số 1571/QĐ-UBT ngày 4-11-1986 của UBND tỉnh về việc ban hành quy định tạm thời cho các đơn vị quốc doanh lâm nghiệp được tổ chức cho các hộ gia đình công nhân viên và đơn vị tập thể nhận đất trồng rừng, nhận rừng để chăm sóc, bảo vệ cho đến khi thu hoạch; đồng thời thực hiện theo Nghị quyết đại hội Đảng bộ H.Xuân Lộc lần thứ IV về việc ngăn chặn dứt điểm tình trạng chặt phá rừng, nhằm mục tiêu phục hồi những diện tích rừng đã bị chặt phá, giúp người dân ổn định sản xuất.

Đến năm 1994, Lâm trường Xuân Lộc tiến hành chuyển từ hợp đồng liên kết theo nhóm hộ dân sang hợp đồng sử dụng đất cho từng hộ gia đình căn cứ vào Quyết định số 327/CT ngày 15-9-1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về  một số chủ trương, chính sách sử sụng đất trống, đồi núi trọc, bãi bồi ven biển, mặt nước và căn cứ Khoản 3, Điều 12 Nghị định 02/CP ngày
15-1-1994 về việc giao khoán đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. Sau đó, Lâm trường Xuân Lộc tiến hành điều chỉnh thành hợp đồng giao khoán đất lâm nghiệp cho phù hợp với quy định của Chính phủ.

* Giàu lên nhờ đất rừng

Trong quá trình thực hiện ký kết, lâm trường đã thực hiện nhiều phần việc như: thiết kế, phân lô, phóng tuyến và san ủi đường nội vùng, san ủi đắp đập ngăn suối tạo thành hồ nước; hướng dẫn kỹ thuật trồng các loại cây, trồng rừng; bố trí lực lượng tuần tra kiểm soát phòng, chống cháy rừng, bảo vệ các thành quả lao động cho người dân. Hằng năm, đơn vị còn thực hiện chính sách chi trả kinh phí bảo vệ rừng, dịch vụ môi trường rừng cho các hộ dân…Với rất nhiều các chính sách hỗ trợ trên nên ngày càng thêm nhiều hộ dân xin hợp đồng nhận khoán.

Theo Ban Quản lý rừng phòng hộ Xuân Lộc, trên toàn lâm phận hiện có hơn 2,2 ngàn hộ dân hợp đồng nhận khoán đất để trồng rừng và trồng cây xen canh với diện tích hàng ngàn ha. Đại đa số các hộ dân nơi đây đều cần cù lao động, thực hiện tốt các điều khoản trong hợp đồng giao khoán cũng như các quy định của Nhà nước về việc bảo vệ, phát triển rừng và đều có kinh tế ổn định.

Điển hình như hộ ông Hoàng Đình Khi (người dân tộc Nùng, ngụ xã Xuân Thành). Được biết, cách đây 28 năm, ông Khi hợp đồng nhận khoán 5ha đất rừng để trồng cây gỗ dầu, xà cừ,  bên dưới tán các loại cây này, gia đình ông trồng điều và hồ tiêu. Ông Khi phấn khởi cho hay, đất ở vùng này rất tốt nên năm nào cây trồng cũng cho năng suất cao. Mấy năm trước hồ tiêu và hạt điều có giá nên mỗi năm gia đình ông thu 300-400 triệu đồng/năm nên gia đình ông tích lũy cũng được kha khá, cuộc sống ổn định, lo cho con cái ăn học đàng hoàng.

* Xử lý dứt điểm các trường hợp vi phạm

Bên cạnh đại đa số các hộ dân có ý thức chấp hành tốt các quy định của Nhà nước đối với đất lâm phận thì còn tồn tại một vài người dân cố tình hiểu sai, làm sai các quy định của Nhà nước cũng như vi phạm các nội dung trong hợp đồng nhận khoán đất rừng.

Cụ thể như một số trường hợp cố tình chặt phá, hủy hoại cây rừng để lấy thêm diện tích, không gian canh tác cây trồng nhà mình; hay việc tự ý xây dựng nhà ở, xây dựng các công trình kiến trúc kiên cố trong đất lâm phận.  Không chỉ thế, một số trường hợp còn khiếu kiện, khiếu nại đến các cơ quan chức năng buộc Ban Quản lý rừng phòng hộ Xuân Lộc chấp thuận cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên phần đất mà họ hợp đồng nhận khoán trước đó…

Tuy nhiên, căn cứ Điều 20, Chương III, Luật Lâm nghiệp; Điều 136 Luật Đất đai năm 2013 thì Ban Quản lý rừng phòng hộ không có thẩm quyền giao đất hay chuyển mục đích sử dụng đất rừng sang đất khác. Đồng thời, cũng căn cứ theo Khoản 4, Điều 19, Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15-5-2014 của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành một số điều Luật Đất đai nêu rõ, trường hợp không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân gồm: người nhận khoán đất trong các nông trường, lâm trường, doanh nghiệp nông, lâm nghiệp, Ban Quản lý rừng phòng hộ, Ban Quản lý rừng đặc dụng.

Căn cứ theo các quy định trên, việc các hộ dân yêu cầu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên đất của lâm phận là không đúng theo quy định pháp luật. Ngoài ra, căn cứ theo Nghị định số 168/2016/NĐ-CP ngày 27-12-2016 của Chính phủ về khoán rừng, vườn cây, diện tích mặt nước trong các ban quản lý rừng đặc dụng, ban quản lý rừng phòng hộ và Công ty TNHH MTV Nông lâm nghiệp nhà nước thì không có quy định về việc xây dựng trên đất nhận khoán. Cho nên, theo Ban Quản lý rừng phòng hộ Xuân Lộc, việc đơn vị này hướng dẫn, yêu cầu người dân không được xây dựng nhà ở và các công trình phụ khác trên đất lâm phận là có cơ sở pháp lý, đúng pháp luật.

Trao đổi với phóng viên Báo Đồng Nai, ông Hoàng Đình Long, Giám đốc Ban Quản lý rừng phòng hộ Xuân Lộc cho hay, trước việc một số người dân hiểu sai, dẫn đến làm sai theo các quy định của pháp luật về tài sản đất rừng, đơn vị cũng đã phối hợp cùng chính quyền địa phương, các ngành chức năng có liên quan tổ chức rất nhiều lần gặp gỡ, đối thoại để tuyên truyền, giải thích pháp luật cho người dân hiểu rõ để chấp hành đúng pháp luật.

Cũng liên quan đến công tác quản lý, bảo vệ rừng trên địa bàn H.Xuân Lộc, vào ngày 22-4, Phó chủ tịch UBND tỉnh Võ Văn Chánh đã chủ trì cuộc họp với lãnh đạo H.Xuân Lộc, Công an tỉnh và các sở, ngành liên quan xoay quanh việc đưa ra các giải pháp giải quyết dứt điểm tình hình khiếu nại, khiếu kiện của một số hộ dân tại Ban Quản lý rừng phòng hộ Xuân Lộc.

Theo nội dung kết luận của buổi làm việc, Phó chủ tịch UBND tỉnh Võ Văn Chánh đã yêu cầu Ban Quản lý rừng phòng hộ Xuân Lộc kiên quyết giữ và bảo vệ diện tích đất rừng như đã được giao để đảm bảo tỷ lệ che phủ theo chỉ tiêu nghị quyết của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh. Tuy nhiên, đối với quyền lợi của người dân thì phải luôn được đảm bảo, lợi ích của người dân phải hài hòa với lợi ích của chủ rừng và Nhà nước. Việc giải quyết phải dựa trên các cơ sở quy định của pháp luật.

Phó chủ tịch UBND tỉnh Võ Văn Chánh đề nghị các ban, ngành, đoàn thể địa phương cần phải thường xuyên tuyên truyền các chính sách pháp luật đến người dân để họ hiểu và chấp hành tốt hơn. Song song đó, các cơ quan tư pháp cần họp bàn, thống nhất biện pháp xử lý nghiêm đối với các trường hợp cố tình vi phạm trong lĩnh vực đất đai và lâm nghiệp tại lâm phận do Ban Quản lý rừng phòng hộ Xuân Lộc quản lý.    

Hải Đình

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về Gỗ trinh nam Trung Quốc – giá trị kinh tế cao

Cây Trinh nam (danh pháp khoa học: Phoebe zhennan; Trung văn gọi là nam mộc (楠木), nam thụ (楠樹/楠树), trinh nam (楨楠/桢楠)) là một loài thực vật thuộc họ Lauraceae. Đây là loài đặc hữu của Trung Quốc. Chúng hiện đang bị đe dọa mất môi trường sống. Nó được văn bản của phía Trung Quốc (văn bản tôi đang sử dụng là bia đá dựng vào những năm đầu thế kỉ 17) ghi là chữ Nam 楠. Chữ này có hai bộ phận: bộ mộc 木 chỉ cây, chữ nam 南 có ý chỉ là đến từ phương nam hay mọc ở phương nam. Phương nam ở đây là chỉ cả miền nam Trung Quốc ngày nay, nước Việt Nam, vùng Đông Nam Á rộng lớn. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-go-trinh-nam/ Sách Bản thảo cương mục cũng ghi nhận nó là cây của phương nam. Đây là loại cây cho gỗ chắc, thớ mịn, rất tuyệt cho các kiến trúc gỗ như đình, chùa, và dinh thự, vì kị mối mọt. Gỗ của cây trinh nam vốn rất đắt đỏ, chỉ có các hoàng đế Trung Hoa mới có khả năng sở hữu. Theo sử sách, gỗ trinh nam từng được dùng để xây dựng Tử Cấm Thành và để làm ngai vàng, đồ nội