Chuyển đến nội dung chính

Hành động vì thiên nhiên

Chủ đề Ngày Môi trường thế giới (5/6/2020) được Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) chọn là Hành động vì thiên nhiên (Time for Nature).

Chủ đề này có ý nghĩa  quan trọng trong cam kết bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học nhằm phục hồi các hệ sinh thái bị suy thoái, ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường an ninh lương thực, bảo vệ tài nguyên nước – không chỉ với riêng hơn 150 quốc gia hưởng ứng ngày kỷ niệm này (kể từ khi khởi phát tại Stockholm, Thụy Điển vào ngày 5/6/1972) mà còn với tất cả các quốc gia trên thế giới. Hành động vì thiên nhiên, chính  là ứng xử phù hợp của cả nhân loại và của mỗi con người trước những giá trị hiện hữu về thiên nhiên, môi trường.

Một khu rừng ở Khu bảo tồn Đakrông (Quảng Trị) bị người dân chặt phá để trồng keo lá tràm. Ảnh Thanh Tùng.

Đến nay, thế giới chỉ còn  lại 20% diện tích rừng tự nhiên (80% rừng tự nhiên đã bị tàn phá, hủy diệt trong nhiều thập kỷ qua). Theo một thống kê được công bố: 129 triệu ha rừng của thế giới biến mất trong giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2015. Trung bình cứ mỗi 2 giây, lại có diện tích rừng rộng bằng 2 sân bóng đá biến mất bởi các nguyên nhân như cháy, làm nông nghiệp, khai thác gỗ, chăn nuôi…

Thống kê cũng đưa ra con số 70% thực vật và động vật  trên thế giới bị mất đi môi trường sống do nạn phá rừng. Từ năm 2010 đến năm 2019 có hơn 160 loài sinh vật trên Trái Đất đã tuyệt chủng trong môi trường tự nhiên. Với tốc độ phá rừng như hiện nay thì sau 100 năm nữa, các khu rừng nhiệt đới còn lại  trên thế giới sẽ bị xóa sổ. Rừng bị phá là một trong các nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan khác.

Ai cũng biết phá rừng dẫn đến hậu quả thiên tai tàn khốc nhưng các cánh rừng nguyên sinh, tái sinh cứ lần lượt bị xóa sổ bởi sự tắc trách trong quản lý, bởi lòng tham và sinh kế của con người. Để hình thành một cánh rừng nguyên sinh phải mất hàng triệu, thậm chí hàng chục triệu năm nhưng để phá đi một cánh rừng (làm dự án, lấy gỗ, lấy củi, canh tác nông nghiệp), con người chỉ cần vài ngày hay vài tháng!

Mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, 2 khu vực bạt ngàn  rừng xanh của Việt Nam là  Tây Nguyên, Tây Bắc bị tàn phá theo một cung cách khác nhau. Sau năm 1975 đến cuối những năm 90 của thế kỷ trước, xe chở gỗ nối đuôi nhau chạy công khai trên các tuyến đường nối Tây Nguyên với đồng bằng nhưng kể từ năm 2000 đến nay hình ảnh này đã lùi vào dĩ vãng, nhường chỗ cho cung cách phá rừng quy mô hơn, bài bản hơn dưới danh nghĩa các dự án phát triển kinh tế. Lâm tặc tận dụng triệt để kẽ hở quản lý, thậm chí câu kết với một bộ phận cán bộ quản lý biến chất, vẽ ra các dự án quy hoạch phát triển kinh tế rồi mặc sức triệt hạ những cánh rừng nguyên sinh, tái sinh để làm giàu nhanh chóng.

Cùng với các dự án phát triển kinh tế, thủy điện cũng góp phần triệt hạ nhiều diện tích lớn rừng Trường Sơn ở miền Trung. Sự phát triển ồ ạt của thủy điện, đã khiến các địa phương duyên hải miền Trung (từ Hà Tĩnh đến Bình Thuận) phải thường xuyên đương đầu với lũ lớn vào mùa mưa và khô hạn khốc liệt vào mùa hè.

Sinh kế của người dân cũng góp phần xóa sổ các cánh rừng nguyên sinh, tái sinh  trên cả nước. Ngoài chặt hạ, đốt phá để canh tác cây nông nghiệp ngắn ngày, các hộ dân còn tìm cách thu hẹp những khoảnh rừng nguyên sinh, tái sinh, lấy đất trồng bạch đàn hay keo lá tràm bởi lợi nhuận hấp dẫn, từ 25 đến 50 triệu đồng/ha, chỉ sau vài năm cắm cây con xuống đất.

Thật trớ trêu khi trong báo cáo về tỷ lệ trồng mới rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc của cấp ngành quản lý địa phương có cả những diện tích rừng kinh tế chỉ trồng vài năm rồi chặt hạ, bán cho thương lái. Nhiều tổ chức, chuyên gia môi trường đã lên tiếng cảnh báo về loại hình rừng kinh tế này bởi ngoài giá trị quy bằng tiền, bạch đàn và keo lá tràm không có độ che phủ, không thể tạo ra thảm thực vật và đa dạng sinh học mà còn dễ bắt lửa gây cháy vào mùa khô.

Hành động vì thiên nhiên mà cụ thể là ứng xử có trách nhiệm với rừng, luôn được các cấp, ngành, địa phương chú trọng, quan tâm. Khẩu hiệu bảo vệ rừng có ở khắp nơi nhưng diện tích rừng nguyên sinh ở Việt Nam chỉ còn khoảng 10%, với  độ che phủ  chưa đến 40% là con số đau lòng, đáng phải suy ngẫm.

Rừng không còn là nguyên nhân của các trận lũ quét, lũ ống kinh hoàng ở miền núi; lụt lội, khô hạn, nhiễm mặn ở duyên hải miền Trung và ở miền Đông Nam Bộ đồng thời cũng là nguyên nhân gây sạt lở, thiếu phù sa bồi lắng ở đồng bằng sông Cửu Long. Con người nhỏ bé trước thiên nhiên; lại càng nhỏ bé hơn, mong manh hơn trước thảm họa thiên tai bão lũ và khô hạn.

Ở thời điểm này, khi mà nắng nóng đang là nguy cơ gây cháy cao cho các cánh rừng trồng ở Bắc và Trung Trung Bộ thì tại cực Nam Trung Bộ, từng đàn cừu mệt mỏi lê bước trên đất đai nứt nẻ, cây trồng khô cháy để tìm nước. Sự chống đỡ của người dân trước hạn hán, xâm nhập mặn  giữa mùa hè cũng như các giải pháp được cấp, ngành quản lý từ Trung ương đến địa phương đưa ra đều mang tính thời điểm.

Thiên tai bão lũ, khô hạn chỉ có thể được giảm thiểu bằng hành động, quyết sách căn cơ là khôi phục lại những diện tích rừng nguyên sinh xuất phát từ thái độ nghiêm túc, cầu thị của cơ quan quản lý và ý thức của mỗi người dân.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu