Chuyển đến nội dung chính

Gập ghềnh bước chân giữ rừng

Trời quá trưa, nắng vẫn như đổ lửa, cái nắng từ khoảng trồng rừng bị phát trắng khiến khi quạt vẫn nóng lên hầm hập.

Con đường mở ra để phục vụ trồng rừng và khai thác rừng xuyên qua những vạt rừng già Trường Sơn. Ảnh: T.Phùng.


Anh Trương Văn Nam, nhân viên hợp đồng bảo vệ rừng (BVR) thuộc Trạm BVR số 8 của Chi nhánh Lâm trường Trường Sơn thuộc Cty TNHH Một thành viên Lâm công nghiệp Long Đại (Cty Long Đại) dập lửa bếp và bưng xuống nồi canh.

Quệt mồ hôi, anh khoe: “Hôm qua, bắt được mấy con chè khé (cua rừng) nên có nồi canh ngon”. Bữa cơm được dọn ra, chỉ có nồi cá khô nhỏ kho ớt và nồi canh chè khé giã nhuyễn nấu với rau rừng…

Nhỏ nhoi giữa rừng già…

Từ Trạm BVR số 8, nếu đi xe máy theo con đường khai thác sau gần 3 giờ đồng hồ thì hết tuyến đường. Nếu đi bộ thì gần cả nửa ngày mới đến nơi.

Đến đây, có một chốt BVR của Trạm BVR số 8 nằm dưới một gốc cây dâu sát dòng suối Xà Biên. Nói là chốt, nhưng thực ra chỉ có tấm bạt được căng qua dây rừng làm mái.

Trong chốt buộc 3 cái võng bạt, là nơi ăn nghỉ của 3 anh em lực lượng BVR, gồm Trần Xuân Tiến - tổ trưởng và hai tổ viên là Nguyễn Đức Tuấn và Trương Văn Nam. Anh Tiến bảo: “Đây là lán của người trồng rừng, họ về rồi nên mấy anh em cũng lấy làm nơi đóng chốt luôn”.

Lực lượng BVR của Lâm trường Trường Sơn làm nhiệm vụ đối đầu với hiểm nguy chỉ bằng tay không. Ảnh: T.Phùng


Từ chốt, hàng ngày 3 anh em thay phiên nhau tuần rừng để ngăn chặn người lạ và BVR tự nhiên. Buổi sáng, ăn cơm sớm và phân công nhau theo kiểu vòng tròn: người trực ở chốt, người đi tuần rừng.

Mỗi người một hướng. Theo lộ trình thì cố gắng đi trưa về chốt ăn cơm. Cũng có khi phải làm cơm nắm mang theo ăn giữa rừng cho lại sức để về chốt.

Đêm ở chốt, anh em đốt lên đống lửa để lấy khói quạt vào chốt cho đỡ muỗi. Mùa hè, muỗi rừng như vãi trấu. Khói lên được một lúc cũng đỡ phần nào. Đi rừng mệt nên anh em ngủ lắng nhanh.

Khi bếp tắt, hết khói thì muỗi lại nhào lên. Nằm trong võng, dùng chăn phủ hết cả đầu lẫn chân tránh muỗi. Được lúc, nóng quá mồ hôi chảy ướt cả võng.

Ngày ba bữa cơm, thức ăn chỉ duy nhất là cá khô nhỏ kho nước với ớt. Hôm nào trời mát, anh em về con suối bên chốt đặc rong rêu để bắt cua rừng. Có được thì dành mấy con nấu nồi cháo bồi bổ sức. Còn lại mấy con nhỏ hơn, để trưa mai nấu nồi canh húp cho mát dạ.

Anh Tuấn nói: “Em ở chốt vậy là ngót tháng rưỡi nay rồi đó. Có lẽ cùng không có ai thay cho mà tranh thủ về nhà một bữa”. Anh em ai cũng canh cánh nỗi lo trong lòng.

Thường đi tuần rừng thì có được hai người, lỡ bề gặp nguy thì còn cách cứu nhau. Nhưng vì diện tích rừng quá rộng, nhiều cửa rừng nên phải chia nhau tuần tra các vùng khác nhau.

“Vừa đi vừa lo lắng. Cành cây gãy trúng người, rắn rết bất ngờ hay trượt chân giữa dòng suối cạn nhô nhổm đá… thì khó mà kêu được ai trợ giúp”, anh Tuấn bộc bạch.

Nhiều nhân viên BVR đi tuần rừng nhưng cũng tính đến xin thôi việc vì thu nhập thấp. Ảnh: T.Phùng.


Anh Trần Văn Trung, phụ trách BVR của Lâm trường Trường Sơn cũng đang ở rừng để hỗ trợ cho anh em trong nhiệm vụ tuần tra, đẩy đuổi người lạ ra khỏi rừng ở các tiểu khu do Trạm BVR số 8 đảm nhận.

Anh Trung bảo trước khi phát hiện ra vụ xâm hại rừng thì anh em trong lực lượng cũng cố hết mình chứ không phải lơi là nhiệm vụ.

Nhưng vì lực lượng quá mỏng nên phải bố trí theo kiểu “rải mành mành” ở khắp các trạm, chốt. Chẳng hạn như ở Trạm BVR số 8, trong thời gian dài chỉ có bố trí được 2 anh em. Trong khi đó diện tích rừng bảo vệ lên đến trên 7.200ha.

“Ngay cả chỉ đi tuần thôi cũng đã đuối rồi chứ đừng nói đến đấu tranh với lâm tặc. Nhiều lần đối mặt lâm tặc, anh em cũng xuống nước năn nỉ họ ra khỏi rừng thôi chứ trong tay chỉ là cái dùi cui nhựa. Trong khi đó, người bên họ gấp hai, ba lần bên mình và ở giữa rừng thẳm thì làm sao trấn át được”, anh Trung chia sẻ.

Vì lực lượng mỏng, yếu nên đã có lần, ban đêm, lâm tặc xông vào chốt (bản Zìn Zìn) đánh đập nhân viên khiến hai anh Đoàn Ngọc Tú và Lê Xuân Hoàn phải chạy vào rừng để giữ an toàn tính mạng.

May mắn là anh Tú phát hiện được một người trong số đó nên tránh được cuộc truy đuổi, đánh đập. Đến quá nửa đêm, hai anh em mới hú tìm được nhau trong nỗi lo sợ đám lâm tặc quay trở lại…

Chốt BVR nằm giữa rừng già. Ảnh: T.Phùng.


Cần tăng cường sự phối hợp…

Theo anh Trung, anh em trong lực lượng BVR rất lo lắng về trách nhiệm giữ rừng. Nhưng quyền lợi thì cũng rất… hạn hẹp. Dù công việc nặng nhọc, nguy hiểm… nhưng thu nhập lại không đáng là bao.

Sau 18 năm gắn bó với công việc, lương được nhận của anh Trung trên 5 triệu đồng/tháng. Những anh em còn lại cũng nằm ở mức từ 4,2 - 5 triệu đồng/tháng.

Anh Nguyễn Ngọc Minh có 15 năm gắn bó với nhiệm vụ BVR có mức thu nhập 5,5 đồng/tháng. Anh Minh bảo, bỏ tiền mua cái xe máy khoảng hai chục triệu để phục vụ công tác tuần tra. Chạy đường rừng, qua khe suối nên chỉ ba tháng là thay bộ nhông, xích, đĩa, bốn tháng là thay bộ má phanh. Khoảng 2 năm là bán xe cho đồng nát chỉ được vài triệu.

“Chi phí đó trích từ đồng lương mà ra chứ anh em có thu nhập gì khác nữa đâu”. Anh Minh cũng đang gặp khó khăn, vợ đau bệnh hiểm nghèo, hai con còn nhỏ. “Rất khó để yên tâm công tác khi mà mỗi tháng chỉ đưa cho vợ nuôi con được vài triệu đồng mà đi biền biệt 28 ngày/tháng. Tôi đang định xin nghỉ việc”, anh Minh buồn ra mặt.

Những năm trước đây, lực lượng BVR của Lâm trường Trường Sơn trên 50 người. Sau này do áp lực công việc lớn, thu nhập thấp, chi phí sinh hoạt cao nên người lao động cũng dần bỏ việc.

Ông Châu Ngọc Dương, Giám đốc Lâm trường Trường Sơn cho hay: “Đến nay, chúng tôi chỉ còn lại 27 người, trong đó có cả người ốm đau, người chờ chế độ nghỉ hưu. Vì phải chia lực lượng ở 9 trạm, 1 đội cơ động và 4 chốt, nên mỗi cơ sở cũng chỉ bố trí được 2 người là hết quân số”.

Bữa cơm đơn giản và đạm bạc giữa rừng già. Ảnh: T.Phùng.


Từ năm ngoái đến nay, Cty Long Đại đã một số lần thông báo tuyển dụng hợp đồng BVR. Tuy nhiên, số người dự tuyển cũng hạn chế. Thậm chí tiêu chuẩn dự tuyển được hạ xuống nhưng người tìm đến không được như kế hoạch đặt ra. Hiện Cty đang tuyển dụng hợp đồng BVR thêm 25 người nhưng có lẽ cũng khó như những lần trước.

Nhiều anh em BVR chia sẻ rằng đã có thâm niên trên dưới 10 năm gắn bó với công việc. Nay đổi đi làm việc khác thật không dễ dàng chi.

“Tuy nhiên, biết đến lúc nào thì đời sống được cải thiện để phần nào phụ giúp vợ con. Chứ với áp lực công việc như hiện tại thì nhiều người khó mà trụ được”, một nhân viên hợp đồng BVR bộc bạch.

Đốt lửa, buộc võng tại chốt để tránh muỗi và nghỉ ngơi sau một ngày tuần rừng. Ảnh: T.Phùng.


Rõ ràng, rừng Trường Sơn hiện còn rất nhiều gỗ quý, nhất là gỗ lim, gõ, táu… nên đây là địa bàn mà lâm tặc thường xuyên “nhòm ngó” đến.

Vì vậy, để có hệ thống bảo vệ vững chắc thì không chỉ là chủ rừng mà cần có sự vào cuộc khẩn trương của chính quyền địa phương các cấp từ tỉnh đến cơ sở. Nhiệm vụ BVR không chỉ là của chủ rừng mà cần có sự phối hợp hành động giữa chính quyền các địa phương ven rừng, liền kề với rừng với chủ rừng.

Ông Nguyễn Văn Long, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Quảng Bình nhìn nhận: “Nếu thiếu đi sự phối hợp chặt chẽ giữa chủ rừng và chính quyền các địa phương thì việc giữ được rừng gỗ quý là rất khó”.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu