Chuyển đến nội dung chính

Bảo tồn đa dạng sinh học vì mục tiêu phát triển bền vững: Bảo đảm đa dạng cho các sự sống trên Trái đất

(TN&MT) - Bà Hoàng Thị Thanh Nhàn - Phó Cục trưởng Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học (Tổng cục Môi trường - Bộ TN&MT) đã có những chia sẻ với Phóng viên Báo Tài nguyên và Môi trường, nhân Ngày Quốc tế Đa dạng sinh học (22/5/2020).

PV: Chủ đề Ngày quốc tế Đa dạng sinh học năm 2020 là “Các giải pháp của chúng ta sẵn có ở thiên nhiên”. Vậy, các giải pháp “sẵn có ở thiên nhiên” là gì, thưa bà?

Bà Hoàng Thị Thanh Nhàn:

Các giải pháp dựa trên thiên nhiên là một thuật ngữ có thể được sử dụng để mô tả các phương pháp tiếp cận thay thế và phi truyền thống đối với các vấn đề môi trường, như lũ lụt, khan hiếm nước hoặc xói mòn đất, bằng cách khai thác vốn tự nhiên.

Các giải pháp dựa trên thiên nhiên giải phóng việc xây dựng các công trình biển, hồ chứa, đập và hệ thống thoát nước mà cách tiếp cận cơ sở hạ tầng “xám” sẽ gặp phải một số rủi ro về biến đổi khí hậu. Thay vào đó, các giải pháp dựa trên thiên nhiên có thể bao gồm khôi phục và bảo tồn các rạn san hô và vành đai rừng ngập mặn để tăng cường khả năng chống chịu lũ lụt ven biển và nước biển dâng, đóng vai trò là tuyến phòng thủ đầu tiên giúp tiêu tán năng lượng sóng; thảm thực vật để giảm nguy cơ sạt lở và tạo ra các vành đai xanh để giúp bổ sung nước ngầm ở những khu vực phải đối mặt với tình trạng khan hiếm nước.

Bà Hoàng Thị Thanh Nhàn - Phó Cục trưởng Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học (Tổng cục Môi trường - Bộ TN&MT)

Một số hành động khuyến cáo cho việc áp dụng các giải pháp dựa vào thiên nhiên chính là tiếp cận hệ sinh thái để giải quyết đồng thời mất đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu và suy thoái đất; cân nhắc vấn đề đa dạng sinh học trong phát triển các ngành kinh tế.

PV: Mặc dù, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực từ chủ trương, chính sách đến hành động nhưng thực tế, hệ sinh thái, đa dạng sinh học của Việt Nam liên tục bị suy giảm và suy thoái với tốc độ rất nhanh. Xin bà cho biết rõ hơn về thực trạng này?

Bà Hoàng Thị Thanh Nhàn:

Có thể kể đến tình trạng quản lý các hệ sinh thái (HST) tự nhiên, đặc biệt các HST rừng trên cạn chưa hiệu quả nên ở nhiều địa phương, vẫn diễn ra các hoạt động chặt phá rừng, khai thác gỗ bất hợp pháp có tổ chức ở các khu rừng phòng hộ, vùng đệm khu bảo tồn, hành lang giữa các khu bảo tồn, thậm chí trong vùng lõi rừng đặc dụng; chất lượng rừng suy giảm: Diện tích rừng tự nhiên giảm dần hàng năm trong khi diện tích rừng trồng tăng; từ năm 2005 đến năm 2017, diện tích rừng đã tăng từ 34,6% đến 41,45% do trồng rừng và cải tạo tự nhiên. Tuy vậy, diện tích rừng tự nhiên lại giảm từ 12 triệu ha (1945) còn 2,8 triệu ha (2017) và có 80% trong số này ở mức duy trì kém. Trong giai đoạn 2012 - 2017, diện tích rừng tự nhiên đã mất do chặt phá rừng trái phép chiếm 11%, 89% còn lại do chuyển mục đích sử dụng rừng tại những dự án được duyệt. Trung bình mỗi tháng, cả nước ghi nhận khoảng 806 vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng.

Tại một số vùng ven biển, ven các đảo lớn gần bờ có sự xung đột giữa phát triển và bảo tồn (phát triển các khu công nghiệp) trên đất khai hoang lấn biển như ở vùng cửa sông châu thổ sông Hồng; vấn đề chất thải từ các nhà máy công nghiệp như Formosa Hà Tĩnh, Nhiệt điện Vĩnh Tân 1, Ninh Thuận; phát triển quá mức lồng bè nuôi ở các vụng, vịnh biển...), đã gây ô nhiễm môi trường và tác động tới HST đất ngập nước ven biển và vùng biển ven bờ. Các hệ sinh thái đất ngập nước tự nhiên ở Việt Nam có xu hướng suy giảm diện tích như: Rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển, bãi vùng gian triều, rừng tràm, hồ tự nhiên nhưng lại có chiều hướng gia tăng diện tích các kiểu đất ngập nước nhân tạo như (hồ chứa nước, ao nuôi trồng thủy sản, đất trồng lúa, ao xử lý nước thải…).

Điều đáng nói, vẫn còn nhiều bất cập trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, luật pháp và thể chế về bảo tồn và phát triển bền vững các hệ sinh thái. Mặc dù, đã có một hệ thống các văn bản quy định xử lý các vi phạm ở các mức độ khác nhau, từ bồi thường thiệt hại, phạt, xử lý vi phạm hành chính, kể cả theo luật hình sự, nhưng các chế tài áp dụng đối với các hành vi vi phạm các quy định về bảo tồn, phát triển bền vững các hệ sinh thái nói chung và đa dạng sinh học còn nhiều điểm bất hợp lý, chưa đủ răn đe, ngăn cản sự xâm hại, gây tổn thương cho HST.

Khôi phục và bảo tồn vành đai rừng ngập mặn để tăng cường khả năng chống chịu lũ lụt và nước biển dâng

Mặt khác, với phương thức tiếp cận khai thác, sử dụng tự do, nhiều hệ sinh thái tự nhiên quan trọng này đang là những điểm nóng với các xung đột, mâu thuẫn … liên quan đến không gian hoạt động; các giá trị, sản phẩm do các hệ sinh thái mang lại không được phân chia hài hòa và thường bị khai thác quá giới hạn cho phép. Mâu thuẫn trên, dẫn đến nhiều vấn đề, tiềm ẩn các nguy cơ phát triển kém bền vững và một trong những nguy cơ trên là mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển kinh tế tại các hệ sinh thái, xung đột lợi ích giữa các bên liên quan đến các hệ sinh thái và lại tập trung nhiều ở các hệ sinh thái có giá trị đa dạng sinh học, không gian chung của nhiều hoạt động sản xuất, kinh doanh, kể cả các hệ sinh thái đã được khoanh vùng bảo vệ, bảo tồn.

Trong khi đó, hiện nay, lực lượng cán bộ làm công tác bảo tồn các hệ sinh thái tại các KBT và các khu vực có giá trị đa dạng sinh học cao ngoài KBT còn thiếu và yếu. Trong khi đó nguồn lực tài chính đảm bảo thực thi quản lý Nhà nước về hệ sinh thái, khu bảo tồn nói riêng và đa dạng sinh học nói chung còn hết sức hạn chế. Nguồn lực của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức phi Chính phủ cho bảo tồn và phát triển bền vững hệ sinh thái chưa huy động nhiều, do chưa có các cơ chế chính sách phù hợp.

Đồng thời, vẫn còn hạn chế trong việc tuyên truyền nâng cao nhận thức của các cấp về vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng cúa các dịch vụ HST. Các hoạt động điều tra nghiên cứu đa dạng sinh học ở các kiểu đất ngập nước nội địa đặc thù như thủy vực ngầm trong hang động vùng núi đá vôi còn ít được quan tâm.

PV: Vậy những giải pháp nào được đặt ra để chặn đà suy thoái đa dạng sinh học, thưa bà?

Bà Hoàng Thị Thanh Nhàn:

Tôi cho rằng, trước hết, cần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về bảo tồn đa dạng sinh học, như: Hoàn thiện pháp luật, thể chế quản lý, tăng cường năng lực thực thi pháp luật về đa dạng sinh học; kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý về đa dạng sinh học; xây dựng và thực hiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý về đa dạng sinh học; nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ thực thi pháp luật của đội ngũ quản lý đa dạng sinh học từ Trung ương đến địa phương; đa dạng hóa nguồn lực và phương thức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ những người làm công tác bảo tồn đa dạng sinh học các cấp. Lồng ghép bảo tồn đa dạng sinh học trong các quy hoạch, chiến lược, kế hoạch của các ngành kinh tế có tác động nhiều đến đa dạng sinh học như nông, lâm, ngư nghiệp, du lịch, giao thông, năng lượng, sử dụng đất. Đặc biệt, các khu vực bảo tồn cần được ưu tiên trong các quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh.

Đồng thời, huy động sự tham gia của cộng đồng và khu vực tư nhân trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học. Cần phải tạo được cơ chế để có thể huy động các lực lượng này tham gia vào công tác bảo tồn, thông qua các cơ chế đồng quản lý, cơ chế tự quản và các mô hình hợp tác công tư nhằm bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học, kiểm soát chặt chẽ các tác động lên đa dạng sinh học, đặc biệt là tác động từ các dự án phát triển thông qua việc thực hiện tốt đánh giá môi trường chiến lược và đánh giá tác động môi trường.

Chúng ta cũng cần triển khai các chương trình bảo tồn và phục hồi đa dạng sinh học, ưu tiên cấp độ hệ sinh thái và loài. Tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức về bảo tồn đa dạng sinh học nhằm thay đổi mẫu hình tiêu thụ bền vững đối với tài nguyên sinh vật. Mở rộng hợp tác quốc tế, huy động hỗ trợ và chuyển giao công nghệ nhằm tăng cường hiệu quả bảo tồn đa dạng sinh học.

PV: Trân trọng cảm ơn bà!

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu