Chuyển đến nội dung chính

Bốn thách thức mới của ngành chế biến gỗ



Ngành chế biến gỗ của Việt Nam đang đứng trước bốn thách thức mới phải giải quyết sớm. Trong đó, nổi bật là tính cạnh tranh sản xuất tại Việt Nam tăng cao do các doanh nghiệp (DN) FDI tham gia thị trường Việt Nam ngày càng lớn.

Đây là thông tin được đưa ra tại hội thảo “Tư duy lại mô hình sản xuất chế biễn gỗ” do Hội Thủ công mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP. Hồ Chí Minh (HAWA) kết hợp cùng Công ty Yorkers tổ chức ngày 10/9.

Ngành gỗ đứng trước thách thức mới

Theo số liệu từ Tổng cục Lâm nghiệp, giá trị xuất khẩu lâm sản 8 tháng đầu năm nay đạt 7,08 tỷ USD, tăng 18,6% so với cùng kỳ năm 2018, chiếm khoảng 26,6% tỷ trọng xuất khẩu toàn ngành nông nghiệp. Riêng xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đạt khoảng 6,66 tỷ USD. 5 thị trường chiếm gần 80% tổng kim ngạch xuất khẩu lâm sản là Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc và Hàn Quốc. Với đà phát triển của các đơn hàng cuối năm, ngành gỗ hy vọng sớm hoàn thành chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường, đưa kim ngạch xuất khẩu lâm sản cả năm 2019 lên 11 tỷ USD, tăng 1,7 tỷ USD so với năm 2018.

Tuy nhiên, ghi nhận từ phía các nhà máy lại thấy, nổi lên 4 thách thức mà ngành gỗ phải giải quyết sớm. Trong đó, nổi bật là tính cạnh tranh sản xuất tại Việt Nam tăng cao do các DN FDI tham gia thị trường Việt Nam ngày càng lớn. Dịch chuyển đơn hàng từ thương chiến Mỹ Trung khiến lượng khách hàng mới gia tăng vào Việt Nam. Các DN năng động, chủ động hay làm công tác bán hàng và chăm sóc khách hàng tốt có thể nhận được nhiều đơn hàng.

Sự dịch chuyển đơn hàng cũng là lý do ngành đang thu hút rất nhiều DN quốc tế. Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong 5 tháng đầu năm 2019, tổng số vốn FDI đầu tư tăng gấp gần 1,2 lần so với đầu tư FDI của cả năm 2018. Trong đó, số dự án FDI mới đầu tư vào ngành gỗ là 49, tương đương 73% số dự án FDI của cả năm 2018. Đặc biệt, chiếm trên 60% trong tổng số dự án đầu tư vào ngành gỗ tại Việt Nam là 32 công ty hoạt động trong mảng chế biến gỗ.

Thách thức thứ hai là tình trạng khan hiếm lao động do làn sóng dịch chuyển sản xuất vào Việt Nam quá nhanh và nhiều. Theo các DN sản xuất, làn sóng FDI đã góp phần khiến nhu cầu nhân công tăng lên. Hiện giá nhân công ở các khu công nghiệp đã tăng từ 10 - 20% nhưng DN vẫn rất khó để tuyển người.

Thách thức thứ ba là năng suất lao động của DN Việt Nam khá thấp, được xếp vào nhóm thấp nhất khu vực ASEAN (hiện chỉ đạt 3,79 điểm/thang điểm 10), xếp thứ 11 trong số 12 nước châu Á tham gia xếp hạng. Chỉ số cạnh tranh của nguồn nhân lực Việt Nam cũng chỉ đạt 3,39/10 điểm, xếp thứ 73/133 quốc gia được xếp hạng.

Thách thức cuối cùng là nền tảng số hóa đang thay đổi rất lớn công nghiệp chế biến, quản trị, thiết kế, mua bán hàng... Kinh doanh online cũng là xu thế bắt đầu lan vào ngành nội thất làm thay đổi rất lớn công nghiệp thiết kế sản phẩm và cách sản xuất ra nó.

Bốn thách thức trên cho thấy, cùng lúc DN chế biến gỗ Việt Nam phải đối diện với nhiều nhiệm vụ. Một mặt, vừa phải giải quyết những vấn đề nội tại để đảm bảo chất lượng, đáp ứng đơn hàng đang có, vừa phải gia tăng năng suất, chất xám... để có thể giữ và đón khách hàng mới. Mặt khác, phải linh hoạt, thêm lợi thế cạnh tranh để trụ vững và đón đầu những thay đổi trong tương lai. Bài toán mà DN chế biến gỗ Việt Nam đang đối mặt không đơn giản.

“DN trong ngành cần có một tầm nhìn mới, một tư duy sâu. Chìa khóa để cùng lúc giải hai bài toán ấy là tư duy lại mô hình sản xuất của mình, ứng dụng công nghệ để gia tăng nội lực”, ông Nguyễn Quốc Khanh, Chủ tịch HAWA nhận định.

Theo ông Khanh, với sự tiến bộ của kỹ thuật sản xuất chính xác công nghệ cao, kết hợp các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, robot... công nghệ chế biến gỗ đang tiến đến những bước phát triển đáng ngạc nhiên, mang lại cho DN rất nhiều cơ hội cải tiến chất lượng, kiểm soát tốt tiến độ, giảm sự lệ thuộc vào lao động, bùng nổ sản xuất… Nếu định hướng phát triển tốt, hoạch định đầu tư hiệu quả, DN sẽ khai thác được các giá trị công nghệ mang lại, hướng đến phát triển bền vững.

Nguồn nhân lực chất lượng cao cũng là thách thức hiện nay của ngành chế biến gỗ Việt Nam

Đón đầu những thay đổi lớn

Ông Leslie Lye - Giám đốc kinh doanh Weinig - cho biết, trong tương lai, thị trường đồ gỗ sẽ có những thay đổi đáng kể. Ví dụ, thay vì mua đồ nội thất được sản xuất với số lượng đại trà, hàng loạt, khách hàng ngày nay càng sẵn sàng cho việc chi tiền để mua những đồ nội thất được cá nhân hóa để đáp ứng nhu cầu của họ. Chi phí sản xuất của những đồ nội thất tùy biến này đương nhiên phải có giá cả tương đương với các sản phẩm sản xuất hàng loạt mới có thể cạnh tranh. “Để đáp ứng nhu cầu thị trường, các nhà sản xuất đồ nội thất sẽ cần phát triển một hệ thống để phục vụ cho việc thiết kế và quản lý sản xuất được cho các đơn hàng với các lô cá nhân hóa khác nhau”, ông tư vấn.

Theo đại diện Weinig, nhà sản xuất đồ nội thất sẽ cần phải thiết lập khả năng không chỉ sản xuất các sản phẩm đại trà mà còn với khả năng sản xuất đơn hàng nhỏ, lẻ một cách linh hoạt. Để có lợi nhuận, DN cần có một biểu đồ chính xác về quy trình sản xuất và các cách chuyển đổi sản xuất giữa các sản phẩm dễ dàng và nhanh chóng.

Chính vì thế mà nhiều DN đã chuẩn bị ngân sách để đầu tư thiết bị mới, con số đầu tư, với DN có quy mô vừa, cũng có thể lên đến 50 tỷ đồng.

Tuy nhiên, theo ông Bernd Kahnert - chuyên gia tư vấn cấp cao Công ty Homag - vấn đề lớn của DN Việt Nam không phải là công nghệ mà là nhân lực nhận chuyển giao và ứng dụng các công nghệ sản xuất. “Thực tế rất khó tìm được nhân lực có trình độ hiểu và có thể vận hành các thiết bị cho nhà máy. Đó là chưa kể, sự biến động đôi khi rất cao của nhân lực, gây rủi ro cho cả các công ty cũng như cho những đơn vị cung cấp máy móc”, ông Bernd Kahnert chia sẻ.

Hạn chế ấy đòi hỏi công tác chuẩn bị cho nguồn nhân lực ngành phải đến từ hai phía, hệ thống giáo dục lẫn DN. Theo ông Cao Duy Tâm, Giám đốc Công ty Vetta, đơn vị đại diện cho SCM tại thị trường Việt Nam, để đạt đến doanh số 20 tỷ USD năm 2025, việc đào tạo lao động cho ngành chế biến gỗ Việt Nam là cấp thiết. Hiện các trường đại học tại Việt Nam cũng đã xây dựng khoa Chế biến gỗ (HAWA hợp tác với Đại học Sư phạm kỹ thuật) nhưng công tác này cần phát triển hơn nữa mới có thể tạo ra sự phát triển bền vững cho ngành.

Ở phía còn lại, là trách nhiệm của DN trong việc tái đầu tư nhân lực hiện có. “Trong tương lai, những người thợ lành nghề, có thể sử dụng các hệ thống sản xuất tiên tiến sẽ ngày càng quan trọng. DN sẽ phải mất thời gian, tiền bạc và công sức để nâng cao trình độ cho người lao động, đạt đến mức có thể vận hành, duy trì và đổi mới các quy trình sản xuất rất phức tạp. Nếu chỉ đầu tư công nghệ mà quên chuẩn bị nhân lực, công tác này cũng sẽ khó đạt được hiệu quả như mong muốn”, đại diện Homag nhấn mạnh.

Minh Long - Mai Ca

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh