Chuyển đến nội dung chính

Đột phá tăng trưởng ngành gỗ - Bài 2: Không ít thách thức



Nhiều doanh nghiệp trong ngành cho biết thách thức lớn nhất đang đặt ra cho ngành chế biến gỗ là nguồn nhân lực đang có xu hướng khan hiếm dần, dịch chuyển sang nhiều ngành khác.

Công ty TNHH Tài Phước (Bình Định) mỗi năm sản xuất và xuất khẩu sang thị trường châu Âu, Trung Quốc hơn 3.000m3 gỗ. Ảnh: Vũ Sinh - TTXVN
Lợi thế và tiềm năng đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng của ngành chế biến gỗ, nội thất đã được khẳng định, tuy nhiên nhiều doanh nghiệp trong ngành cho biết thách thức lớn nhất đang đặt ra cho ngành chế biến gỗ là nguồn nhân lực đang có xu hướng khan hiếm dần, dịch chuyển sang nhiều ngành khác. Bên cạnh đó, vấn đề chất lượng nguồn nguyên liệu và chuỗi liên kết cũng là những “nút thắt” cần được tháo gỡ.

Khan hiếm nguồn nhân lực

Trong vài năm trở lại đây cùng với mức tăng trưởng “nóng”, ngành chế biến gỗ đang đối mặt với thách thức lớn về nguồn nhân lực, bao gồm cả lao động phổ thông lẫn đội ngũ kỹ sư.

Chia sẻ về thực trạng trên, ông Lê Xuân Quân, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Kiến trúc nội thất NANO, Chủ tịch Hội Gỗ và Thủ công mỹ nghệ tỉnh Đồng Nai cho biết, với chỉ số tăng trưởng sản xuất và xuất khẩu ở mức cao hiện nay, đòi hỏi số lượng lao động trực tiếp cũng phải tăng theo tỉ lệ thuận. Tuy nhiên hiện nay doanh nghiệp rất khó tuyển người, cả công nhân lẫn kỹ sư.

Nguyên nhân là do số lượng doanh nghiệp tăng nhanh, kể cả doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tạo nên sự cạnh tranh trong thu hút lao động, kéo giá nhân công khởi điểm tăng thêm từ 10 -20%.

Theo ông Lê Xuân Quân, mặc dù đã chấp nhận trả lương cao hơn nhưng doanh nghiệp vẫn không tuyển được đủ nhân lực đáp ứng yêu cầu sản xuất do người lao động ngày càng có nhiều lựa chọn việc làm hơn trong khi ngành chế biến đồ gỗ được coi là công việc khá nặng nhọc, môi trường làm việc ít cạnh tranh so với các ngành thương mại, dịch vụ khác.

Cả nước chỉ có 4 trường đại học đào tạo chuyên ngành chế biến lâm sản, chỉ tiêu tuyển sinh mỗi năm chỉ khoảng 300 sinh viên và 7 trường dạy nghề với khoảng 600 học viên. Đó là lý do đội ngũ kỹ sư lâm nghiệp, kỹ sư chế biến gỗ đang rất thiếu trầm trọng, doanh nghiệp phải tự đào tạo, vừa tốn chi phí vừa mất thời gian.

Cùng quan điểm, ông Nguyễn Chiến Thắng, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty Scansia Pacific nêu vấn đề, với đà phát triển nhanh, nhu cầu nhân lực của ngành gỗ không chỉ là lao động phổ thông mà cần ở tất cả các khâu từ thiết kế, sáng tạo đến kinh doanh, marketing, tài chính…

"Khác với quan điểm cho rằng doanh nghiệp có thể ứng dụng công nghệ để giảm áp lực về lao động, các doanh nghiệp ngành gỗ muốn ứng dụng công nghệ càng cần có nhân lực, đặc biệt là lao động có tay nghề, có khả năng vận hành hiệu quả dây chuyền sản xuất mới. Lao động có tay nghề ngày càng hiếm, sự cạnh tranh gia tăng khiến doanh nghiệp khó giữ chân lao động có kinh nghiệm trong khi chưa có giải pháp thu hút lứa lao động kế cận đã tạo ra gọng kìm đối với ngành chế biến gỗ Việt Nam.", ông Nguyễn Chiến Thắng chia sẻ.

Ông Đỗ Văn Dũng, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh cho rằng, ngành gỗ đang “khát” nhân lực ở mọi trình độ.

Điều đó xuất phát từ quan điểm cho rằng ngành gỗ là phá rừng, thợ mộc là lao động chân tay dẫn đến ít người quan tâm đến ngành học này.

Bên cạnh đó, chương trình đào tạo khung còn nặng về lý thuyết, các trường thiếu cơ sở vật chất phục vụ thực hành đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng đào tạo. Do đó số lượng lao động ngành gỗ vốn đã ít ỏi, khi ra trường lại chưa đáp ứng được yêu cầu công việc thực tế của doanh nghiệp.

Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, các doanh nghiệp, cơ sở chế biến gỗ đang thu hút khoảng 500.000 lao động trực tiếp; trong đó, lao động có trình độ đại học, kỹ sư chỉ chiếm khoảng 2 - 3%, công nhân kỹ thuật khoảng hơn 25%, còn lại là lao động phổ thông.

Lực lượng lao động thiếu về lượng, yếu về chất nên năng suất lao động của ngành gỗ Việt Nam còn thấp, chỉ bằng 50% so với Philipines, 40% của Trung Quốc và bằng 20% của Liên minh châu Âu.

Trong khi đó, nhu cầu thực tế về lao động ngành chế biến gỗ, nội thất trong năm 2020 ước tính khoảng 64.000 người có trình độ đại học, trên đại học và khoảng 267.000 công nhân kỹ thuật; dự kiến đến năm 2025 nhu cầu nguồn nhân lực tương ứng là gần 107.000 người có trình độ đại học và trên đại học cùng với 445.000 công nhân kỹ thuật.

Tổ chức sản xuất – chế biến còn lỏng lẻo


Công ty TNHH Sông Kôn tại Khu Công ngiệp Phú Tài (Bình Định), năm 2019 Công ty phấn đấu sản xuất 45.000 tấn dăm gỗ và 5.000m3 gỗ ghép thanh tiêu thụ thị trường trong nước và xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, đạt doanh thu khoảng 190 tỷ đồng. Ảnh: Vũ Sinh - TTXVN
Diện tích rừng trồng và sản lượng gỗ nguyên liệu không ngừng tăng lên trong những năm qua đã tạo nền tảng khá tốt để các doanh nghiệp yên tâm đầu tư chế biến. Tuy nhiên, theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nguyên liệu gỗ trong nước mới chỉ đáp ứng được 75% nhu cầu, còn lại phải nhập khẩu.

Năm 2019, xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam đạt hơn 1,7 tỷ USD nhưng ngược lại Việt Nam cũng phải nhập khẩu một lượng lớn gỗ nguyên liệu trị giá hơn 2,5 tỷ USD phục vụ chế biến. Cùng với đó, chất lượng nguyên liệu gỗ từ rừng trồng trong nước còn thấp do khai thác sớm, gỗ còn non.

Ông Huỳnh Văn Hạnh, Phó Chủ tịch Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ Tp. Hồ Chí Minh cho rằng, chủng loại và chất lượng nguyên liệu gỗ của Việt Nam còn hạn chế.

Cây trồng chủ lực mới chỉ có cao su và tràm, chưa đáp ứng được nguyên liệu sản xuất các mặt hàng cao cấp. Hiện nay tình trạng “bán lúa non” nguyên liệu vẫn còn phổ biến, tỉ lệ gỗ rừng trồng phục vụ cho ngành dăm (có giá trị thấp) vẫn cao, phá vỡ tổng thể quy hoạch rừng trồng của cả nước.

Cùng chung nhận định, ông Điền Quang Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội Gỗ Bình Dương phân tích, sở dĩ chất lượng gỗ rừng trồng của Việt Nam, nhất là gỗ tràm có chất lượng không cao do được trồng theo chủ trương phủ xanh đất trống đồi trọc nên khối lượng rất dồi dào nhưng lại không đồng nhất, chủ yếu là chất lượng thấp, tỷ lệ gỗ hao hụt trong quá trình chế biến khá cao.

Theo ông Điền Quang Hiệp, chu kỳ khai thác gỗ từ cây rừng trồng là 7 năm, với 4,3 triệu ha rừng trồng hiện có, khả năng cung ứng gỗ nguyên liệu trong nước chỉ đạt gần 27 triệu m3 gỗ quy tròn.

Một điều đáng lưu ý là theo chu kỳ khai thác của cây cao su, sản lượng gỗ khai thác từ các vườn cao su trong giai đoạn 2020-2025 sẽ giảm nhiều gây ảnh hưởng lớn tới nguồn gỗ nguyên liệu rừng trồng thời gian tới.

Trong khi đó, để xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đạt 20 tỷ USD đòi hỏi nguồn cung ứng gỗ nguyên liệu từ rừng trồng trong nước phải tăng gấp đôi hiện nay, tức phải đạt khoảng 50-55 triệu m3 gỗ quy tròn.

Cùng với chất lượng nguồn gỗ nhiều doanh nghiệp cũng bày tỏ lo ngại khi Việt Nam chưa thiết lập được liên kết chuỗi về nguyên liệu – chế biến do sản xuất nhỏ lẻ và không tập trung. Chi phí cho việc vận chuyển gỗ từ nơi sản xuất đến chế biến còn cao làm tăng giá thành sản phẩm.

Ông Nguyễn Chánh Phương, Tổng Thư ký Hội Mỹ nghệ và chế biến gỗ Tp. Hồ Chí Minh chia sẻ, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, các doanh nghiệp ngành chế biến gỗ Việt Nam thường có xu hướng tự tìm nguồn nguyên liệu và tự sản xuất sản phẩm hoàn thiện mà chưa có tư duy chuyên môn hóa theo công đoạn và kết nối thành chuỗi dài.

"Do duy trì hoạt động đơn lẻ nên các doanh nghiệp Việt khó tạo được sự đột phá về giá trị và nâng cao khả năng cạnh tranh so với các doanh nghiệp FDI. Sản xuất độc lập, thiếu liên kết giúp doanh nghiệp Việt Nam khai thác hiệu quả các thị trường ngách, số lượng nhỏ nhưng cũng là nguyên nhân khiến các doanh nghiệp  khó có khả năng cung ứng các đơn hàng số lượng lớn, sản xuất đại trà” ông Nguyễn Chánh Phương nhấn mạnh./.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu