Chuyển đến nội dung chính

Từ “lâm tặc” trở thành người giữ rừng

 Ông Dương Xuân Kiếm đã trở thành một trong những người giữ rừng mà trước đây ông từng là "lâm tặc" có tiếng.

Từ “lâm tặc” trở thành người giữ rừng 1

Tổ bảo vệ rừng thôn 4, xã Đak Jơ Ta đi kiểm tra những cánh rừng

Để bảo vệ những cánh rừng, cùng với việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân, những cán bộ Ban Quản lý rừng phòng hộ còn thu phục cả “lâm tặc”, đưa họ trở về với con đường đúng đắn. Ông Dương Xuân Kiếm đã trở thành một trong những người giữ rừng như thế…

Lãnh địa phá rừng

Xã Đak Jơ Ta, huyện Mang Yang (tỉnh Gia Lai) nằm bên dòng sông Ayun chảy ra từ cánh rừng Quốc gia Kon Ka Kinh. Cánh rừng nhiều gỗ quý Kon Ka Kinh từ lâu đã trở thành “điểm nóng” của nạn phá rừng, nơi trú ngụ của những đoàn “lâm tặc” từ các nơi đổ về.

Ở xã vùng sâu này, khi hỏi về một cái tên có “số má” trong giới “lâm tặc”, người dân sẽ nhắc đến ngay ông Dương Xuân Kiếm, quê Lạng Sơn.

Ông Kiếm từng là một “lâm tặc”, một đàn anh cộm cán sẵn sàng “chơi tới cùng” nếu có kẻ nào đến chiếm địa bàn làm ăn… Nhưng đó chỉ là chuyện cũ. Giờ đây, người đàn ông hơn 50 tuổi ấy đang là Tổ trưởng Tổ bảo vệ rừng thôn 4, xã Đak Jơ Ta.

Ông Kiếm dáng cao to, trên người còn rất nhiều hình xăm trổ bặm trợn khiến ai gặp lần đầu cũng cảm thấy ái ngại. Thế nhưng, cảm giác đó nhanh chóng bị xua tan bởi chất giọng trầm, lời nói xởi lởi.

Ông Kiếm cho biết, năm 1998, ông rời quê vào huyện Đức Cơ (Gia Lai) lập nghiệp với đủ thứ nghề, từ chẻ đá móng nhà, vạt gỗ mít cho đến đánh cộ bò sang Campuchia khai thác gỗ.

Năm 2005, ông Kiếm dắt díu vợ và 3 con từ quê vào, chọn thôn 4, xã Đăk Jơ Ta làm nơi lập nghiệp, làm kinh tế. Cuộc sống khó khăn, nghe lời rủ rê, năm 2009 ông trở thành “lâm tặc” cưa những cây gỗ quý trên cánh rừng xung quanh để nuôi vợ con.

Ông Kiếm kể, khu vực này lúc đó được bao bọc bởi bạt ngàn những cánh rừng của Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh, Ban Quản lý rừng phòng hộ Mang Yang, Hà Ra với rất nhiều gỗ quý như hương, dổi, pơ mu…

Chỉ 1 ngày “đi rừng” có thể tiêu xài, uống rượu cả tháng không hết. Từ một lâm tặc “con con”, người đàn ông này dần dà thành một đại ca trong vùng vì sự liều lĩnh, manh động, sẵn sàng “chơi tới cùng” đối với những cuộc tranh giành địa bàn làm ăn.

Các “lâm tặc” ngoài làm thuê cho chủ gỗ để hưởng tiền công, khai thác gỗ theo đơn đặt hàng của các xưởng mộc còn làm “mánh lẻ”. Gỗ quý nằm ở bìa rừng dần bị khai thác hết.

Để tiếp tục mưu sinh, họ ngày càng lấn sâu vào vùng lõi của rừng. Đường vận chuyển ngày càng khó khăn nhưng những phách gỗ quý vẫn lần lượt tuồn ra khỏi địa bàn bởi sức hấp dẫn của nghề “không vốn nhưng bốn lời”. Cứ hết tiền tiêu, nhóm “lâm tặc” lại dắt rìu lên lưng vào rừng.

Trả nợ rừng

Cánh rừng ở Mang Yang dần teo tóp, những thân gỗ lớn dần mất đi. Không chỉ những cánh thợ rừng phía Bắc đóng chân, những thợ rừng ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định cũng vào đây len lỏi phá rừng, biến nơi đây thành “điểm nóng” của nạn khai thác gỗ trái phép.

Thế nên, khi nghe cán bộ cắm chốt thuyết phục “Kiếm tiền dễ thì tiêu tiền cũng dễ. Ai làm thợ rừng luôn nơm nớp lo sợ bị công an, kiểm lâm phát hiện. Sợ sốt rét rừng, sợ cây đổ, sợ rắn cắn, sợ tranh giành lãnh địa. Chết rồi, đi tù rồi, què rồi vợ con sẽ ra sao?”, ông Kiếm dần hiểu ra. Từ năm 2013, ông Kiếm bắt đầu tham gia vào lực lượng bảo vệ rừng.

Ban đầu, ông tham gia cùng cán bộ Ban Quản lý rừng phòng hộ Hà Ra. Năm 2018, ông đứng ra nhận giao khoán bảo vệ rừng và vận động thêm 3 người trong làng tham gia.

Nhờ sự tham gia của ông Kiếm và những dân làng, từ chục năm nay, “điểm nóng” phá rừng ở khu vực này không còn nữa. Cái tên Kiếm “lâm tặc” lẫy lừng một thuở giờ chỉ còn là chuyện quá khứ, nhóm “lâm tặc” khét tiếng cũng dần tự giải tán.

“Đã có nhiều người tìm đến nhà dụ dỗ, mua chuộc tôi trở lại “nghề” cũ, nhiều lần không được thì quay ra đe dọa. Thậm chí, có người còn cho rằng, việc giao rừng cho “lâm tặc” giữ là không được. Tôi không nhận lời và còn nói rắn với kẻ đó: “Mày coi chừng, đó là đất tao giữ đấy”, ông Kiếm xuề xoà kể.

Hiện nay, với mức lương mỗi tháng chỉ gần 3,8 triệu đồng nhưng có thời điểm, ông Kiếm phải túc trực trong rừng 3-4 ngày liền để thường xuyên kiểm tra. Thông thuộc đường rừng, lại nhận thức rõ ý nghĩa công việc hiện tại, ông Kiếm trở thành người giữ rừng xuất sắc…

“Tôi biết ơn những người giúp tôi đi con đường đúng, giúp chúng tôi trở thành người được giao rừng và bảo vệ rừng”, ông Kiếm nói.

Chuyện khó tin!

Từ “lâm tặc” trở thành người giữ rừng 2

Ông Dương Xuân Kiếm dẫn đầu tổ công tác bảo vệ rừng đi tuần tra cánh rừng được giao khoán bảo vệ

Với người dân thôn 4, việc ông Kiếm trở thành nhân viên giữ rừng được xem là chuyện khó tin, nhưng ông Nguyễn Văn Chính, Trưởng ban Quản lý rừng phòng hộ Hà Ra lại dám đứng ra chịu trách nhiệm trước quyết định ấy.

Ông Chính kể: Năm 2013, sau khi kiểm tra vùng rừng giáp ranh xã Đak Jơ Ta, ông nhận thấy “lâm tặc” đang nhăm nhe khu vực rừng do đơn vị quản lý.

Trong khi đó, khoảng cách từ đơn vị đến khu vực này rất xa, phải đi mất 2 ngày đường mới đến nơi, chưa kể phải vượt suối sâu rất nguy hiểm. Nếu cắm chốt ở đây, tối thiểu cần 3 người thì rừng vẫn bị mất. Chỉ có giải pháp cắm lực lượng “lâm tặc” giữ rừng thì mới hiệu quả.

“Thú thật, lúc đầu lo lắm. Có người còn nói loáng thoáng rằng tôi bắt tay với “lâm tặc”. Nhưng rồi ý tưởng ấy cũng thành hiện thực. Ngoài vận động ông Kiếm, còn có thêm 3 người khác nữa từng là lâm tặc có “số má” ở vùng được xét giao rừng và trở thành người giữ rừng. Tổng số diện tích rừng những người này được khoán bảo vệ là hơn 375ha, có việc làm, thu nhập ổn định. Từ khi họ đoàn kết giữ rừng, không ai bén mảng đến khu vực này nữa. Khu vực rừng giao khoán được giữ ổn định, không có hiện tượng chặt phá, xâm lấn.

Ban Quản lý rừng phòng hộ Hà Ra còn lựa chọn từng hộ, nhóm hộ hoặc thành phần (chẳng hạn những cựu chiến binh) giao khoán bảo vệ rừng, nhờ đó, hơn 6.373ha rừng giao khoán luôn được gìn giữ, không bị xâm lấn.

“Chúng tôi giao khoán bảo vệ rừng theo phương châm “tự canh, tự quản”, rừng gần thôn, làng nào thì nơi đó bảo vệ. Chúng tôi có đến 9 chốt trạm nhưng chỉ có 15 cán bộ chuyên trách nên phải sử dụng lực lượng hộ nhận khoán phối hợp với lực lượng chốt trạm tuần tra bảo vệ rừng. Mình thật tâm đối với họ, tạo việc làm và xem họ như người nhà, là chủ rừng thực thụ thì không bao giờ họ đem nhà của mình đi bán cả”, ông Chính “bật mí”.

Cách đây hơn 20 năm, khu vực đèo Mang Yang (hay còn gọi là xóm đèo) có khoảng 20 hộ dân di cư tự do, bám ven QL19 mưu sinh. Không có việc làm ổn định, lâu lâu họ lại vào rừng đốn gỗ. Giờ đây, toàn bộ 20 hộ nói trên được vận động và tham gia trồng, chăm sóc bảo vệ 500ha rừng trồng, rừng tự nhiên.

TIN TÀI TRỢ

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu