Chuyển đến nội dung chính

Ai giám sát hoạt động chi trả dịch vụ môi trường rừng?

Do thiếu cơ chế giám sát, nên hoạt động chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) có nguy cơ thiếu minh bạch, mất công bằng giữa các địa phương, giữa các chủ rừng.

Quang cảnh tại hội thảo.

Vấn đề này được các chuyên gia nêu lên tại hội thảo: “Tiếp cận đa bên trong giám sát, đánh giá chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng”, do Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) phối hợp với Hội Chủ rừng Việt Nam tổ chức mới đây.

Nguy cơ thiếu minh bạch

 Ông Nguyễn Bá Ngãi, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp nhận định, chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) được đánh giá là một trong những chính sách lâm nghiệp đột phá của Việt Nam thông qua nhiều thành tựu có ý nghĩa sau gần 10 năm áp dụng trong toàn quốc.

Bên cạnh những đóng góp đáng ghi nhận về mặt kinh tế hay sinh kế người dân, thực tiễn chi trả DVMTR cho thấy chính sách này cũng đã có những tác động đáng kể đến sắp xếp tổ chức và thể chế quản lý lâm nghiệp tại các địa phương theo hướng xã hội hoá – tăng cường sự tham gia của nhiều bên theo cơ chế đảm bảo chi trả dựa vào kết quả bảo vệ rừng.

Ông Ngãi cho hay, bình quân hàng năm, Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng cả nước thu được 1.300 tỷ đồng, chiếm 22% tổng đầu tư toàn xã hội cho ngành lâm nghiệp.

Số tiền này đã được chi trả cho 418.731 chủ rừng và hộ nhận khoán bảo vệ rừng, trong đó có 417.676 hộ gia đình cá nhân, cộng đồng dân cư và 1.055 tổ chức. Qua đó, quản lý và bảo vệ hiệu quả khoảng 5,98 triệu ha rừng, chiếm 42% diện tích rừng cả nước.

“Mặc dù trong 9 năm thực hiện chi trả DVMTR trên phạm vi 45 tỉnh, gần 500 huyện, 4.750 xã, nhưng chi trả DVMTR đang thiếu cơ chế và hệ thống giám sát đánh giá; thiếu quy định chung về bộ chỉ số giám sát; thiếu quy định ràng buộc về trách nhiệm giám sát và báo cáo giữa các cấp, giữa các bên liên quan”.

 Tại hội thảo nhiều chuyên gia nêu vấn đề, do thiếu cơ chế giám sát, nên việc chi trả DVMTR đang có nguy cơ thiếu minh bạch, mất công bằng giữa các địa phương, giữa các chủ rừng.

Có trường hợp, hai mảnh rừng ở rất gần nhau, nhưng vì thuộc hai tỉnh khác nhau, nên một bên thì được trả 600 nghìn đồng/ha tiền DVMTR, nhưng rừng ở tỉnh bên cạnh chỉ được trả 100 nghìn đồng/ha. Việc không có cơ chế, công cụ đánh giá và giám sát, có nguy cơ tạo kẽ hở dẫn đến việc “rút ruột” khoản tiền này.

 Ông Nguyễn Chiến Cường, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam cho biết, hướng tới mục tiêu đảm bảo hiệu quả và tính bền vững của chính sách, từ năm 2014, nhiều cá nhân, tổ chức đã thực hiện các nghiên cứu độc lập cũng như phối hợp cùng Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam và các tỉnh nhằm thiết kế, thử nghiệm hệ thống giám sát – đánh giá tuân thủ, thực hiện và tác động của chính sách chi trả DVMTR.

Tuy nhiên, cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, tiến trình này tại Việt Nam cũng đã và đang vướng phải nhiều câu hỏi và thách thức.

Vấn đề đặt ra là, các nguyên tắc và tiêu chuẩn giám sát – đánh giá cho chính sách này cần được hiểu và thiết kế như thế nào để vừa thể hiện được tính đặc thù vừa hài hoà với các tiêu chuẩn quốc tế, đạt được các mục tiêu kỳ vọng, đồng thời duy trì tính bền vững và cải thiện hiệu quả của chính sách?

Cần xây dựng hệ thống giám sát nhất quán

 Ông Trịnh Lê Nguyên, Giám đốc PanNature nêu vấn đề, các số liệu phục vụ cho việc giám sát, đánh giá chi trả DVMTR hiện nay vẫn còn thiếu đồng bộ. Hệ thống chi trả DVMTR chưa lồng ghép được vào các hệ thống giám sát môi trường và giám sát rừng khác hiện có (ví dụ như hệ thống kiểm lâm, FOMIS hay REDD+).

Một số Quỹ của các tỉnh hiện đang sử dụng số liệu về diễn biến rừng từ kiểm lâm nhưng số liệu này chưa phải là số liệu giám sát thực hiện chi trả DVMTR. Bên cạnh đó, theo chia sẻ của nhiều cơ quan cấp tỉnh, các hướng dẫn hiện hành về giám sát, báo cáo, đánh giá chi trả DVMTR và sinh kế địa phương tương đối khó khăn, dẫn đến việc không thể xây dựng hệ thống nhất quán từ địa phương.

 Ông Hứa Đức Nhị, Chủ tịch Hội Chủ rừng Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ NN- PTNT chia sẻ: “Từ khi bắt đầu xây dựng cơ chế chi trả DVMTR, chúng tôi cũng đã đề cập đến vấn đề giám sát đánh giá. Tuy nhiên, thời điểm đó đã chưa thể đưa ra được những quy định cụ thể (cho đến ngày tôi nghỉ hưu).

Lý do thì có nhiều, nhưng đây là vấn đề mới, một vấn đề không dễ và cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Khi nói tới giám sát – đánh giá, có rất nhiều câu hỏi đặt ra: Ai là người có nhu cầu giám sát đánh giá? Giám sát đánh giá ai? Nội dung cũng như phạm vi giám sát đánh giá  là gì? Các kết quả và các vấn đề sau giám sát đánh giá sẽ được xử lý ra sao?”.

 Ông Hứa Đức Nhị cho rằng, chi trả DVMTR tại Việt Nam, khi xây dựng  trình Chính phủ ban hành Nghị định, về bản chất, là việc người (hay đối tượng) sử dụng DVMTR chi trả tiền cho người có rừng (hay chủ rừng). Do đó, chi trả DVMTR là mối quan hệ chi trả dịch vụ giữa hai bên, tức là giữa người sử dụng dịch vụ và người có rừng để tạo ra dịch vụ đó.

 Với mối quan hệ có tính dân sự, nhưng đã được luật hóa, nhu cầu giám sát – đánh giá do đó sẽ cần có ở 3 đối tượng tham gia và kiểm tra chéo giữa các đối tượng. Người nhận chi trả, tức là các chủ rừng (hoặc người tham gia quản lý, bảo vệ rừng) và người chi trả có thể giám sát lẫn nhau về việc thực hiện các nghĩa vụ của mình.

Người chi trả và người nhận chi trả cũng có thể giám sát tổ chức mà mình ủy thác, ở đây là Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng về việc thực hiện những nội dung được ủy thác cũng như các quy định liên quan của luật pháp.

Xuất phát từ yêu cầu thực hiện chi trả DVMTR, các đại biểu, các chuyên gia kiến nghị Bộ NN- PTNT cần kịp thời xây dựng hệ thống giám sát và đánh giá chi trả DVMTR thống nhất trên phạm vi cả nước. Hệ thống giám sát và đánh giá chi trả DVMTR cần thiết lập bộ chỉ số cho 4 nhóm chỉ tiêu: thể chế, kinh tế, xã hội và môi trường, phát triển phương pháp và bộ công cụ phù hợp và hình thành hệ thống tổ chức thực hiện giám sát và đánh giá chi trả DVMTR.

Kiến nghị Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng trung ương cần phối hợp với các quỹ tỉnh và các chương trình, dự án tiếp tục nghiên cứu, thí điểm, tổng kết, tham mưu Tổng cục Lâm nghiệp xây dựng và ban hành sổ tay hướng dẫn giám sát và đánh giá chi trả DVMTR.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu