Chuyển đến nội dung chính

Xuất khẩu "đóng băng" doanh nghiệp ngành gỗ tận dụng "sân nhà"


Thị trường đồ gỗ trong nước trị giá 3 tỷ USD với 97 triệu dân có nhu cầu sử dụng đồ gỗ chất lượng cao đang tăng, do đó, phải có hệ thống phân phối sản phẩm gỗ, đồng thời, chú trọng xuất khẩu tại chỗ.

Trao đổi với DĐDN, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn cho biết, thời gian qua, dịch COVID-19 đã có những tác động đến các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu gỗ và nông dân. Theo đó, hoạt động xuất khẩu tại các thị trường lớn như Mỹ, EU "đóng băng", trên 80% đơn hàng bị tạm dừng.

Thứ trưởng Hà Công Tuấn cho biết, đơn hàng đóng băng khiến doanh nghiệp ngành gỗ
Thứ trưởng Hà Công Tuấn cho biết, thị trường "đóng băng" khiến 90% doanh nghiệp ngành gỗ đứt gãy chuỗi sản xuất kinh doanh.

-Thưa Thứ trưởng, doanh nghiệp ngành gỗ đang đối mặt nguy cơ đứt gãy chuỗi do COVID-19?

Có thể nói dịch COVID-19 đã ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế toàn cầu và nền kinh tế Việt Nam, phạm vi ảnh hưởng rất rộng, với ngành gỗ, tình hình sản xuất của ngành chế biến, xuất khẩu gỗ có thể nói là ngừng trệ.

Qua khảo sát đánh giá, chỉ có 7% doanh nghiệp vẫn hoạt động bình thường, còn lại trên 90% doanh nghiệp phải tạm dựng hoặc luân chuyển một bộ phận lao động, tạo ra sự đứt gãy toàn chuỗi.

Sản xuất, tiêu thụ đình trệ, ảnh hưởng đến chuỗi, cả những người cung cấp nguyên, phụ liệu, đặc biệt cả những người trồng rừng. Chúng tôi nắm tình hình một số địa phương, người trồng rừng đã kêu khó khăn vì gỗ không có người mua.

Do không có đơn hàng nên các doanh nghiệp chế biến gỗ buộc phải tạm dừng sản xuất và cho lao động nghỉ, đã có nhiều doanh nghiệp cho nghỉ 40 – 80% số lao động hoặc giãn thời gian làm việc.

Qua khảo sát bước đầu ở 130 doanh nghiệp thì bình quân mỗi doanh nghiệp trong quý I thiệt hại 25 tỷ đồng, tổng thiệt hại 3.000 – 5.000 tỷ đồng.

Người lao động không có thu nhập, đang tạm nghỉ việc, đối diện với thất nghiệp ở một bộ phận không nhỏ lao động. Doanh nghiệp cũng có áp lực trả nợ ngân hàng, xin giãn, hoãn thuế, tiền thuê đất, bảo hiễm xã hội.

-Cụ thể những tác động với doanh nghiệp ngành gỗ xét theo các góc độ sản lượng sản phẩm, thị trường như thế nào, thưa Thứ trưởng?

Tôi có thể điểm lại 4 tác động nghiêm trọng. Thứ nhất, đối với thị trường xuất khẩu, đến tháng 4 này khoảng 80% các đơn hàng bị tạm dừng, chưa tìm được đơn hàng mới.

Các thị trường lớn của xuất khẩu gỗ như Hoa Kỳ (chiếm 51% kim ngạch xuất khẩu) EU (chiếm 39%)  gần như đóng băng. Thị trường Nhật Bản (chiếm 12%), Hàn Quốc (chiếm 7%) cũng chỉ còn những đơn hàng lác đác.

Với thị trường Trung Quốc (chiếm 8%), trong trong đó khoảng 90% là sản phẩm dăm gỗ những tháng đầu năm 2020 cũng đã ảnh hưởng nghiêm trọng do Trung Quốc cấm biên. Gần đây, mặc dù hoạt động xuất khẩu đã được bước đầu khôi phục trở lại, tuy nhiên chưa thể trở lại bình thường như trước. Đặc biệt rất đáng tiếc là những ngày gần đây, diễn biến dịch COVID-19 tại Trung Quốc đã lại có những tác động mạnh trở lại đối với hoạt động xuất khẩu và tình hình diễn biến sẽ còn rất khó lường.

Đối với thị trường trong nước, hiện nay có hai sản phẩm chính, một là sản phẩm của các làng nghề truyền thống có đến 70 – 80% sản phẩm không tiêu thụ được, phải tạm dừng hoạt động sản xuất.

Thứ hai, sản phẩm chế biến cao cấp cho các công trình lớn như khách sạn, công sở giảm 90% doanh thu so với cùng kỳ.

 -Vậy Bộ NN&PTNT đã có giải pháp gì để hỗ trợ doanh nghiệp trong giai đoạn khó khăn này, thưa Thứ trưởng?

Trong bối cảnh chống dịch nhưng con người vẫn phải sống, phải sinh hoạt, nhưng dịch đã khiến các mối quan hệ của chuỗi cung ứng, sản xuất đứt gãy. Nếu chúng ta không duy trì được các đơn hàng quốc tế, thì khả năng khôi phục sản xuất càng khó khăn hơn.

Do đó, Bộ NN&PTNT, các bộ ngành đã theo dõi sát sao tình hình sản xuất, theo mục tiêu của Chính phủ là vừa chống dịch vừa đảm bảo duy trì sản xuất, chúng tôi đã làm việc với các Hiệp hội, trong giai đoạn thực hiện giãn cách, nhưng Bộ vẫn duy trì thông tin nắm bắt tình hình.

Đồng thời có văn bản liên quan tới các bộ ngành, Chính phủ về các chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp chế biến gỗ trong giai đoạn khó khăn này. Khó khăn này không chỉ của ngành gỗ mà là khó khăn chung của ngành. Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt việc này.

Chúng tôi đã kiến nghị Chính phủ hai giải pháp trước mắt. Theo đó, Chính phủ đã có chính sách hỗ trợ vừa kịp thời vừa thể hiện quyết tâm cao khôi phục, hỗ trợ sản xuất, thể hiện sự quan tâm của Chính phủ với ngành sản xuất.

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 41/NĐ-CP về gia hạn nộp các loại thuế  (GTGT, TNDN, TNCN); chậm nộp 5 tháng với tiền thuê đất đợt 1 đối với các doanh nghiệp chế biến gỗ nói riêng và các doanh nghiệp nói chung kéo dài trong 5 tháng. Riêng gói tài khoá này lên gần 180.000 tỷ đồng, gấp 6 lần số tiền dự tính ban đầu.

Các doanh nghiệp gỗ đều có quan hệ tín dụng, doanh nghiệp càng sản xuất lớn, dư nợ tín dụng càng cao, trước khó khăn hiện nay, thống đốc NHNN đã trao đổi, thực hiện Thông tư 01, có gói tín dụng 285.000 tỷ đồng để xử lý giãn hoãn nợ cũ, áp dụng cơ chế cho vay có điều kiện đảm bảo nhẹ nhàng hơn, lãi suất thấp hơn 0,5, 0,25% để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn này.

Chính phủ cũng đã xem xét có Nghị quyết hỗ trợ cơ sở sản xuất, người lao động chịu ảnh hưởng của dịch COVID-19, với 62.000 tỷ đồng. Đây là những chính sách lần đầu tiên được áp dụng. Nhà nước đang phải dùng tích lũy từ trước đến nay để đầu tư cho duy trì sản xuất.

Chúng tôi đã có văn bản gửi các hiệp hội, đề nghị các hiệp hội truyền đạt đến doanh nghiệp trước hết là doanh nghiệp phải năng động, sáng tạo, cùng Nhà nước vượt qua giai đoạn khó khăn này.

Trước hết là nhận thức, đánh giá tình hình không quá bi quan, bây giờ không phải là lúc doanh nghiệp nghĩ đến chuyện đóng cửa rồi phá sản mà phải có tư tưởng tìm "cơ trong nguy", ổn định duy trì phát triển trong tương lai.

-Theo Thứ trưởng, doanh nghiệp cần chủ động chuyển đổi, thích nghi, ứng phó như thế nào với đại dịch này?

Thị trường chủ chốt khó khăn thì doanh nghiệp có thể tìm thị trường khác và hướng vào thị trường nội địa.

Việc thực hiện giãn cách xã hội, đương nhiên chuỗi cung ứng bị ảnh hưởng, các doanh nghiệp có thể chuyển sang bán hàng online, không chỉ cho trước mắt mà cả lâu dài, ứng dụng công nghệ trong bán hàng.

Mặt khác doanh nghiệp cũng phải gắn bó với người lao động, không được để ai lại phía sau, thì phải đồng hành, thống nhất với họ, khi dịch khó khăn vận động họ chia sẻ, khi hết dịch họ sẵn sàng trở lại làm việc.

Bộ NNPTNT cũng giao cho Tổng cục Lâm nghiệp làm việc với các hiệp hội, làng nghề, ngay sau khi nới lỏng giãn cách, hết dịch thì phải khôi phục sản xuất ngay không được kéo dài, nếu kéo dài tình trạng tạm ngừng như hiện nay sẽ dẫn đến đình trệ. Phải xử lý ngày tình huống này.

Còn giải pháp lâu dài, mặc dù khó khăn nhưng ngành vẫn có dư địa phát triển tốt, tiềm năng nâng cao chuỗi giá trị. Hiện nay, khả năng nếu dịch COVID-19 qua đi, nhất là thị trường chủ chốt thì khả năng chúng ta vẫn đạt được mục tiêu 12 tỷ USD.

-Còn giải pháp mang tính tổng thể cho ngành thế nào để đạt 12 tỷ USD như Thứ trưởng vừa nói?

Theo tôi, ngành này phải tập trung 4 giải pháp chủ yếu. Thứ nhất, dứt khoát cơ cấu lại sản phẩm xuất khẩu. Hiện nay, chúng ta vẫn phải dùng 25 – 26 triệu m3 gỗ nguyên liệu để sản xuất ra khoảng 13 triệu tấn dăm mà chỉ làm kim ngạch xuất khẩu chỉ 1,5 – 1,6 tỷ USD, con số này rất thấp, chiếm hơn 10%, trong khi lượng nguyên liệu chiếm 60%.

Cơ cấu sản phẩm gỗ cũng phải thay đổi, xuất khẩu chủ yếu sang Mỹ, EU là bàn trang điểm, dụng cụ pòng bếp, phòng tắm chiếm 60%, trong khi đồ ngoại thất, văn phòng chỉ chiếm 40%, đây là dư địa lớn.

Đồng thời cơ cấu cho cả chuỗi, trồng rừng gỗ lớn, cải tiến về giống, đưa giống tốt có thâm canh, đẩy nhanh việc quản lý rừng bền vừng, thực hiện các cam kết với EU.

Thứ hai, làm mạnh mẽ hơn liên kết chuỗi, giảm phụ thuộc nguồn cung, trước chúng ta nhập nhiều nhưng giờ chủ động được 80%, còn 20% nhập.

Vai trò của Hiệp hội, liên kết của Hiệp hội rất quan trọng, Nhà nước có định hướng, Bộ xúc tiến để có một nhạc trưởng trong các hiệp hội, chứ hiện nay hoạt động còn rời rạc.

Phải đẩy mạnh việc sản xuất phụ liệu trong nước, 80% vẫn nhập khẩu, sản xuất trong nước giá thành cao, đây là bất lợi. Hiện có điều kiện để phát triển, do quy mô sản xuất của ngành lớn. Nếu không phát triển thì sẽ phụ thuộc, chi phí cao lên.

Thứ ba, đổi mới công nghệ, ứng dụng công nghệ vào chuỗi, từ ứng dụng giống, chế biến, bán hàng online. Đây là điều bắt buộc phải làm. Đổi mới thiết kế, tạo ra mặt hàng phối trộn gỗ với đá, kim loại để phù hợp với thị trường, nắm bắt nhu cầu thị trường.

Thiết lập và thực thi cho bằng được hệ thống pháp luật chống gian lận thương mại, gian lận xuất xứ, chống được cả chuyển giá. Phải minh bạch nguồn gốc ván dán vì năng lực lớn  nhưng không được để “con sâu làm rầu nồi canh” thì mới giữ được uy tín.

Thứ tư, chú trọng tiêu thụ trong nước, đây là giải pháp đã nói từ lâu, trước đã quan trọng giờ càng quan trọng hơn, hiện nay, thị trường trong nước đã trị giá 3 tỷ USD, và sẽ tăng lên, thị trường 97 triệu dân phải có hệ thống siêu thị, phân phối sản phẩm vì người dân đã có điều kiện sử dụng sản phẩm gỗ chất lượng cao.

Ngành công nghiệp gỗ phải chú trọng xuất khẩu tại chỗ, nhiều doanh nghiệp FDI làm công trình khách sạn, công sở chất lượng cao, các doanh nghiệp khác có thể học tập để cung cấp gỗ cho họ.

Xin cảm ơn Thứ trưởng!

Thy Hằng thực hiện

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số thông tin về gỗ Kim Tơ Nam Mộc hay Nam Mộc Tơ Vàng từ Trung Quốc

XEM:  https://phongthuygo.com/mot-so-thong-tin-ve-go-kim-to-nam-moc-hay-nam-moc-to-vang-tu-trung-quoc/ Kim Tơ Nam Mộc (Nam Mộc Tơ Vàng), là loại gỗ quý đặc biệt chỉ có ở TQ, vân gỗ tựa như sợi tơ màu vàng, cây gỗ phân bố ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, do vậy có tên gọi Kim Tơ Nam Mộc. Kim Tơ Nam Mộc có mùi thơm, vân thẳng và chặt, khó biến hình và nứt, là một nguyên liệu quý dành cho xây dựng và đồ nội thất cao cấp. Trong lịch sử, nó chuyên được dùng cho cung điện hoàng gia, xây dựng chùa, và làm các đồ nội thất cao cấp. Nó khác với các loại Nam Mộc thông thường ở chỗ vân gỗ chiếu dưới ánh nắng hiện lên như những sợi tơ vàng óng ánh, lấp lánh và có mùi hương thanh nhã thoang thoảng. GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ PHONG THỦY CỦA KIM TƠ NAM MỘC Kim Tơ Nam Mộc được phân thành nhiều đẳng cấp thường căn cứ theo tuổi của cây gỗ, tuổi càng cao thì gỗ càng quý. Cao cấp nhất là Kim Tơ Nam Mộc Âm Trầm ngàn năm. Loại này là phát sinh biến dị tự nhiên từ hai ngàn năm

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây măn hay cây găng bầu

Gỗ măn ( hay còn gọi là gỗ găng bầu) là loại gỗ quý hiếm , đang và sắp bị tuyệt chủng tại các khu rừng núi đá khắp các tỉnh miền núi miền bắc nước ta. Cũng giống bao loài gỗ quý hiếm khác sống dọc trên các dãy núi đá vôi tại các khu rừng nhiệt đới miền bắc nước ta , thời xa sưa có rất nhiều loại gỗ quý hiếm khác, như đinh , lim, nghiến , sến, táu, gụ, kháo đá , lát đá , trong đó còn có cả 1 số loại gỗ có mùi thơm và lên tuyết ; như hoàng đàn , ngọc am, gù hương . dã hương , bách xanh ..vvv…. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-man/ Gỗ măn  là 1 loài gỗ sống trên các vách núi đá vôi hiểm trở , thân cây có mầu hơi đen bạc, cây thường mọc rất cao từ 5-20m , lá to và mỏng có lông tơ , vẫn như các loại cây khác thường thân cây được cấu tạo gồm 3 lớp : lớp vỏ, lớp giác và lớp lõi , lớp lõi non bên ngoài có vân càng vào trong tâm lõi vân càng già và đẹp , thường cứ 1 năm sẽ có 1 lớp vân , nên khi thợ cắt cây biết được độ tuổi của cây, nhưng điều đặc biệt là từ kh

Tìm hiểu chi tiết về gỗ cây kháo, nu kháo tự nhiên và giá trị trong nội thất

XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-cay-khao-nu-khao-tu-nhien-va-gia-tri-trong-noi-that/ GỖ KHÁO VÀNG THUỘC NHÓM MẤY, LÀ LOẠI GỖ NHƯ THẾ NÀO? Tại Việt Nam chúng ta, gỗ được phân loại thành 8 nhóm đánh số thứ tự bằng chữ số la mã từ I đến VIII. Cách phân loại này dựa trên các tiêu chí như đặc điểm, tính chất tự nhiên, khả năng gia công, mục đích sử dụng và giá trị kinh tế … Cao nhất là nhóm I và thấp nhất là nhóm VIII. Gỗ kháo thuộc nhóm gỗ số VI, đây là loại gỗ phổ biến ở Việt Nam, nó có những đặc điểm như nhẹ, dễ chế biến, khả năng chịu lực ở mức độ trung bình. Khi quyết định dùng gỗ để làm nội thất thì chúng ta rất cần tìm hiểu gỗ thuộc nhóm mấy, có những tính chất như thế nào, giá thành ra sao để đảm bảo lựa chọn được loại gỗ ưng ý nhất, phù hợp nhất với yêu cầu và mục đích của mình. Có 2 loại gỗ nu kháo: Gỗ nu kháo đỏ Gỗ nu kháo vàng Gỗ kháo có tên khoa học là Machinus Bonii Lecomte, đây là loại gỗ xuất hiện rất phổ biến ở nước ta và các quốc gia l

Gỗ xá xị dùng trong phong thủy – Cách giữ mùi thơm lâu dài – hướng dẫn nhận biết

GỖ XÁ XỊ LÀ GÌ? Gỗ xá xị hay còn được gọi là gỗ gù hương, thuộc hàng gỗ cao cấp, đắt tiền thường được dân chơi gỗ tại Việt Nam săn tìm. Gỗ xá xị thường được sử dụng trong vật phong thủy giúp cho môi trường xung quanh thêm sang trọng và đẳng cấp. XEM:  https://phongthuygo.com/go-xa-xi-dung-trong-phong-thuy-cach-giu-mui-thom-lau-dai-huong-dan-nhan-biet/ Gỗ xá xị là loại cây sinh sống trong rừng sâu, có màu đỏ thẫm, đường vân gỗ tự nhiên uốn lượn xoáy sâu vào phần lõi tạo ra những đường xoắn ốc kỳ diệu. Hình dạng những khối gỗ cũng rất đa dạng nên ứng dụng được nhiều sản phẩm có giá trị cao. Gỗ xa xị đỏ đặc biệt hơn những loại gỗ khác bởi màu đỏ tươi cảm giác mang lại sự may mắn. Đây là lý do tại sao người ta lựa chọn loại gỗ này cho những sản phẩm tượng phong thủy đắt tiền. Tinh dầu gỗ xá xị còn giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của con người, tinh thần sảng khoái, minh mẫn. Một số nơi sử dụng gỗ xá xị như một bài thuốc dân gian chữa bện phong hàn, bệnh tiêu hóa ở trẻ nhỏ, c

Tìm hiểu chi tiết về gỗ Trắc và ý nghĩa trong đời sống, phong thủy

GỖ TRẮC Gỗ trắc hay còn được gọi với cái tên khá Nam Bộ là gỗ Cẩm Lai, nó được coi là cây gỗ đặc trưng của vùng Đông Nam Á. Gỗ trắc sinh trưởng và phát triển tương đối chậm nên sản lượng gỗ không nhiều vì thế mà giá thành cũng khá cao không phải ai cũng sở hữu được. Cây gỗ trắc khá lớn, cây trưởng thành tới kỳ thu hoạch thường cao trung bình 25m. Thân cây to và chắc chắn với đường kính lên tới 1m. Là loại cây cổ thụ lâu năm nhưng vỏ cây gỗ trắc lại không bị sần sùi hay tróc vẩy mà ngược lại rất nhẵn và có màu nâu xám. Gỗ trắc ưa sáng nên những tán lá nhanh chóng vươn lên hứng nắng mặt trời, lá có màu xanh rêu nhạt. Họ nhà gỗ trắc không sinh sống thành một khu vực chung mà sống rải rác cách nhau một khoảng khá xa. Độ cao mà cây sinh sống không quá 500m, thích hợp với những vùng đồi núi Việt Nam. XEM:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-chi-tiet-ve-go-trac-va-y-nghia-trong-doi-song-phong-thuy/ Gỗ trắc là cây gỗ thuốc nhóm I trong nhóm gỗ quý của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở vùng Đ

Tìm hiểu về “Tứ Thiết Mộc” bao gồm những loại gỗ nào

xem:  https://phongthuygo.com/tim-hieu-ve-tu-thiet-moc-bao-gom-nhung-loai-go-nao/ “Tứ thiết mộc” hay còn gọi là 4 loại gỗ có bền chắc và độ cứng rất cao. 4 loại gỗ tứ thiết của Việt Nam bao gồm: đinh, lim, sến, táu. Đây đều là 4 loại gỗ quý thậm chí là rất quý trên thị trường có giá rất cao. Các loại gỗ này thường dùng trong việc chế tác những sản phẩm cao cấp, có độ bền với thời gian, đặc biệt là làm nhà gỗ bao gồm: đền thờ, nhà thờ tổ, chùa chiền… Tên gọi chung các loại gỗ quý rất cứng (ví như sắt). Đinh, lim, sến, táu là hạng thiết mộc. Dùng toàn thiết mộc để làm cột, kèo. Tìm hiểu chi tiết về 04 loại gỗ trên: Gỗ Đinh ,  Gỗ Lim ,  Gỗ Sến ,  gỗ táu